Trí thức trong xã hội. Gần đây, tôi đọc lại một bài viết của Noam Chomsky, Trách nhiệm của giới trí thức, đăng ở Mỹ từ năm 1967. Chomsky, người có tiếng nói gay gắt phản đối cuộc chiến Việt Nam, đồng thời cũng phê phán giới trí thức, những ai ngả theo Nhà Trắng
27/08/2015 14:29 PM. Xã hội tri thức là một kiểu xã hội dựa trên việc không ngừng sản xuất và sử dụng hàng loạt tri thức trong mọi lĩnh vực, với sự trợ giúp của công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại, để phát triển con người trên toàn hành tinh một cách công
Giáo án lớp 1 môn Tự nhiên xã hội. Giáo án môn Tự nhiên và xã hội lớp 1 bộ sách kết nối tri thức với cuộc sống là tài liệu được biên soạn theo quy định dành cho các thầy cô tham khảo, lên kế hoạch giảng dạy cụ thể, chuẩn bị hiệu quả cho các Bài giảng lớp 1 môn Tự nhiên xã hội.
Nêu: * Ví dụ về xã hội tri thức * Lợi ích của xã hội tri thức * Bất lợi của xã hội tri thức. HOC24. Lớp học. Lớp học. Tất cả Lớp 12 Lớp 11 Lớp 10 Lớp 9 Lớp 8 Lớp 7 Lớp 6 Lớp 5 Lớp 4 Lớp 3 Lớp 2 Lớp 1 Hỏi đáp Đề thi Video bài giảng
Đoạn văn 1. Xã hội loài người ngày càng phát triển, thì vai trò của trí thức lại càng được nâng cao. Tri thức là những hiểu biết của con người và nhân loại được đúc kết qua sự phát triển từ thời xa xưa đến ngày nay. Tri thức bao gồm tất cả những khả năng, kĩ
Tri thức Việt - Toàn cầu; Cập nhật tin tức xã hội nhanh chính xác nhất trên báo điện tử Kiến Thức, đọc báo xã hội online tin nhanh 24h. CƠ QUAN CHỦ QUẢN: LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT VIỆT NAM. Giấy phép: số 536/GP-BTTTT, cấp ngày 19/11/2020
z2avjC. Tóm tắtSinh thời, Norbert Wiener, cha đẻ của Điều khiển học Cybernetics đã dự báo "Chúng ta đang làm biến đổi môi trường của ta tận gốc rễ đến mức rồi ta phải tự biến đổi chính mình để tồn tại được trong môi trường mới đó".Quả thực, mấy chục năm qua, dưới tác động của những tiến bộ vũ bão của khoa học và công nghệ, mà nổi bật là công nghệ thông tin, môi trường kinh tế và xã hội đã có những biến đổi căn bản, đang chuyển biến tới một môi trường về cơ bản là mới của nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức. Con người tạo ra môi trường đó; nhưng rồi đến lượt mình, chính sự phát triển khách quan của môi trường đó, với tất cả tính phức tạp, bất định và thường xuyên biến động của mình, lại đòi hỏi con người phải tự biến đổi để có thêm nhiều tri thức mới, nhiều năng lực trí tuệ mới khác về chất so với các năng lực cũ, nhằm giúp mình thích nghi với môi trường mới, có khả năng hành động linh hoạt trong cái phức tạp, bất định và thường xuyên biến động đó của môi trường mới. Công nghệ thông tin đang tích cực thúc đẩy hoạt động tri thức trong mọi lĩnh vực, hỗ trợ đắc lực cho con người phát huy tiềm năng trí tuệ để tồn tại và phát triển trong môi trường mới bài báo cáo, tác giả sẽ trình bày một số nhận thức khoa học về những chuyển biến nói trên, và nêu một vài suy nghĩ về việc tìm kiếm con đường hội nhập của chúng ta từ thực trạng hiện nay vào xu thế chuyển biến chung của thế giới đến một nền kinh tế và xã hội tri thức khi bước sang thế kỷ Môi trường đang thay đổi nhanh chóngSự ra đời của máy tính điện tử cùng với việc xuất hiện các khoa học về thông tin, điều khiển, hệ thống,... vào những năm giữa thế kỷ này là những mầm mống báo hiệu cho một kỹ nguyên phát triển mới của xã hội loài người, như Norbert Wiener đã dự báo "Chúng ta đang làm biến đổi môi trường của ta tận gốc rễ...". Nhưng, "biến đổi môi trường đến mức rồi ta phải tự biến đổi chính mình để tồn tại được trong môi trường mới đó" thì là một dự báo mà đương thời ít ai tính đến. Những biến đổi trong môi trường kinh tế, xã hội trên thế giới trong mấy chục năm qua, đặc biệt trong thập niên cuối cùng của thế kỷ này, đã xảy ra càng lúc vàng nhanh chóng, dồn dập, càng lúc càng đầy tính bất ngờ và không lường trước trong lĩnh vực máy tính, thực tế phát triển đã nhanh chóng vượt xa mọi dự đoán của các chuyên gia có thẩm quyền năm 1943, Thomas Watson, chủ tịch IBM, dự đoán sẽ có một thị trường thế giới với khoảng dăm bảy máy tính; năm 1949, máy tính "trong tương lai" được dự đoán sẽ còn nặng khoảng 1 tấn rưỡi' năm 1977, Ken Olson, chủ tịch và là người sáng lập DEC, còn nói "không có lý do gì để mỗi người phải có một máy tính ở nhà mình", Bill Gates vào năm 1981 còn phỏng đoán "640k là đủ cho mọi người". Và chính Bill Gates cũng thừa nhận là thực tế thay đổi nhanh hơn nhiều phỏng đoán, nhiều chuẩn mực, vì vậy, ngày nay trong công nghệ phần mềm, "chuẩn mực chính là sự thay đổi", liên tục thay đổi để cải tiến, để thích nghi với yêu cầu luôn thay đổi của thị mươi năm trước, khi máy tính điện tử đã được sử dụng ngày càng nhiều vào các lĩnh vực kinh tế xã hội, thúc đẩy cuộc "cách mạng quản lý", người ta đã bắt đầu nói đến tin học hóa xã hội và một "xã hội thông tin" trong tương lai, nhưng những điều hình dung về tương lai đó còn mang tính dự phóng; vào thập niên 80 khi lần lượt các thế hệ máy vi tính ra đời, với tốc độ tăng năng lực theo luật Moore và với khả năng cung cấp cho thị trường mỗi năm hàng triệu, hàng chục triệu rồi hàng trăm triệu máy, thì hình thù của một cơ sở hạ tầng cho "xã hội thông tin" mới bắt đầu rõ nét. Và, bước chuyển biến có ý nghĩa quyết định nhất, thuyết phục nhất, khẳng định sự xuất hiện là sự phát triển bùng nổ của mạng Internet toàn cầu với những bước đi lừng lững vào sâu mọi ngõ ngạch của đời sống con người, bất chấp mọi rào ngăn và cản Internet, nối hàng trăm triệu máy tính của người dùng, có thể truy cập đến hàng triệu nguồn cung cấp thông tin trên khắp thế giới, không còn chỉ là một phương tiện kỹ thuật đơn thuần, mà đã trở thành một môi trường mới của mọi hoạt động kinh tế, xã hội, văn hóa... có tác động rất lớn đến các chuyển biến nhanh chóng của đời sống con người trên khắp hành tinh chúng ta. Và đó mới chỉ là những bước đầu để khẳng định "xã hội thông tin" đã là một hiện thực. Con đường hoàn thiện nó, có những điều dự đoán được và vô số điều không dự đoán được, còn trải dài ở phía trước, hứa hẹn nhiều bất ngờ mới cho thế kỷ mà ta sắp bước vì thế, có lẽ không lấy làm lạ và vào thập niên cuối thế kỷ 20 này, trong bề bộn của những biến động chính trị và xã hội sâu sắc, những tăng trưởng thần kỳ xen lẫn những khủng hoảng của nhiều nền kinh tế, sự xuất hiện của thương mại điện tử, của xu thế toàn cầu hóa kinh tế, nổi bật lên những lời kêu gọi hấp dẫn về tương lai gần của một nền kinh tế tri thức, của một xã hội tri thức, không chỉ cho các nước giàu đã phát triển, mà là cho mọi quốc gia, những kêu gọi cùng với các khuyến nghị và cảnh báo từ các cơ quan quốc tế như Liên hiệp quốc, Ngân hàng thế đi đến những chuyển biến hiện nay, loài người đã trải qua những bước phát triển và những thử thách liên tục trong suốt con đường thế kỷ 20. Một thế kỷ của sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, của những thử thách đối với các hình thức tổ chức và quản lý xã hội, của các phát minh vĩ đại về khoa học và công nghệ, của những tiến triển trong nhận thức con người về kinh tế, xã hội và nhân văn... đã chuẩn bị cho bước chuyển biến hiện nay, được xác định là bước chuyển biến từ xã hội công nghiệp lên xã hội thông tin và tri thức. Có thể đối với một người sống trong các nước công nghiệp phát triển, từng trải nghiệm qua những chặng đường phát triển đó, thì việc chờ đón bước chuyển biến hiện nay là tự nhiên, nhưng đối với chúng ta, sống trong một nước còn chậm phát triển, chưa có điều kiện của sự trải nghiệm đó, thì những thuật ngữ như nền kinh tế thông tin, xã hội tri thức... còn là khá xa vời, và tất nhiên sẽ không khỏi ngỡ ngàng khi dòng chảy của những điều "xa với" đó bỗng ập đến lôi cuốn chúng ta đòi hội thực chất của những biến đổi cơ bản về kinh tế xã hội là gì, vai trò của "tri thức" trong quá trình biến đổi đó đã có những chuyển biến như thế nào, và đã có những tiến triển gì trong nhận thức con người về những biến đổi đó, từ đó chúng ta cần chuẩn bị gì để có thể tự tin đi vào cuộc hội nhập vì sự phát triển của đất nước và dân tộc ta? Những câu hỏi lớn và cấp bánh, tôi mong được tìm hiểu đôi phần, nhưng tất nhiên không dàm có tham vọng đưa ra câu trả lời. Với mong muốn được cùng trao đổi ý kiến, tôi xin trình bày dưới đây một số nhận thức hạn hẹp về các vấn đề nói trên, và đặc biệt về vai trò của sự phát triển Công nghệ thông tin trong các vấn đề Sự chuyển biến tới nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức1. Tri thức trong quá trình phát triển kinh tế xã hộiSự phát triển của tri thức gắn lền với lịch sử phát triển của loài người. Con người tạo ra tri thức và sử dụng tri thức để sống, để phát triển và để hoàn thiện cuộc sống của mình. Ta từng được học rằng con người cần tri thức để nhận thức thế giới và để tác động lên thế giới nhắm phát triển sản xuất làm ra của cải phục vụ cuộc sống con người. Nói gọn theo cách của Peter Drucker tri thức được dùng để sống to being, rồi tiếp đó, để làm to doing. Và đến giai đoạn phát triển hiện nay, tri thức có thêm một chức năng mới, càng ngày càng rõ nét và có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với kinh tế xã hội, đó là dùng tri thức để tạo tri thức applying knowledge to knowledge, chức năng mới này là nhân tố cơ bản làm nên bước chuyển biến tới nền kinh tế tri thức và xã hội tri xa xưa, tri thức thường được coi như của riêng của các bậc thức giả, tri thức là dấu hiệu của đời sống tinh thần, đạo đức, trí tuệ của một người; tri thức là để cho mình, để chứng tỏ phẩm giá của mình, tức là để sống, để khẳng định sự tồn tại của mình. Dù có những hiểu biết giúp con người làm ra kỹ thuật này kỹ thuật nọ, góp phần hữu ích cho cuộc sống, nhưng có lẽ do thiếu tính hệ thống và không đủ chặt chẽ về lôgich, nên chúng thường ít được tôi trọng, thậm chí không được xem là tri thức. Phải đợi đến cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18, khi bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp thì tri thức mới thực sự được dùng để làm, để tạo ra kỹ thuật, công nghệ, để tìm kiếm và khai thác tài nguyên, để chế tạo công cụ sản xuất, để làm ra sản phẩm...Khoa học phát triển, cung cấp các tri thức khoa học ngày càng phong phú, làm cơ sở cho các sáng chế kỹ thuật, phát triển các ngành công nghiệp, tri thức được thể hiện trong việc liên tục phát triển sức sản xuất; và về sau, vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, chức năng đó còn được thể hiện ở chỗ tri thức được dùng để nghiên cứu bản thân việc làm lao động, phân tích lao động và tổ chức một cách khoa học các quá trình lao động trong sản xuất công nghiệp. Điều đó đã khởi đầu cho một cuộc "cách mạng năng xuất" trong nhiều nước công nghiệp phát triển, mà nổi bật là phương pháp nổi tiếng về quản lý khoa học các quá trình sản xuất do đề tế thị trường càng phát triển thì vai trò của hoạt động kinh doanh càng quan trọng, trong nhiều trường hợp là quan trọng hơn cả hoạt động sản xuất trực tiếp. Và vì vậy, trong nền kinh tế thị trường, ưu thế thường thuộc về các tài năng kinh doanh, đó là các tài năng biết phát hiện và tận dụng cơ hội, nắm bắt các ý tưởng mới, tổ chức và sử dụng khéo léo các nguồn lực... người ta thường kể, Edison có hàng trăm bằng sáng chế, trong đó có sáng chế nổi tiếng về sợi dây tóc của bóng đèn điện, nhưng ông ta xem phát minh lớn nhất của mình là tổ chức labo nghiên cứu như là một hình thức công nghiệp hóa việc nghiên cứu khoa học và các hoạt động trí tuệ; Rockefller trở thành ông vua dầu hỏa không phải ở tài tìm dầu mà là ở tài hiểu được nên đưa dầu ra thị trường như thế nào và làm thế nào để kiểm soát được thị trường lý kinh doanh trở thành một năng lực và phẩm chất hết sức quan trọng trong kinh tế thị trường, và ở đây, tri thức bắt đầu thực hiện một chức năng mới, không phải chỉ để sống, để làm, mà là dùng tri thức để tạo tri thức. Đó là việc dùng tri thức nhằm giúp ta tìm cách làm thế nào sử dụng có hiệu quả những tri thức vốn có và tìm thêm những tri thức mới để tạo ra giải pháp và quyết định, tức là những sản phẩm tri thức của quản Sự chuyển biến tới nền kinh tế thông tin và tri thứcNền sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường càng phát triển thì hoạt động kinh doanh và quản lý kinh doanh càng trở nên phức tạp, đòi hỏi nhiều thông tin và tri thức, và tất nhiên cũng càng có ý nghĩa quyết định. Nội dung chủ yếu của hoạt động kinh doanh là điều khiển dòng chảy của các nguồn lực để đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất có thể. Khi thị trường rộng mở. Và trong môi trường đó, các nguồn lực có tinh năng động và linh hoạt cao như nguồn vố tài chính trở thành tác nhân dễ được điều khiển và dễ mang lại những tác động quan trọng đối với kinh tế. Những biến động kinh tế trong thời gian qua đã cho ta thấy rõ việc thay đổi dòng chảy của nguồn vốn đầu tư có tác động quyết định như thế nào đến số phận của các nền kinh tế. Và như người ta thường nói, ở giai đoạn phát triển hiện nay, nền kinh tế thế giới đã được "tài chính hóa", và trong xu thố toàn cầu hóa hiện nay, thì toàn cầu hóa thương mại hàng hóa và dịch vụ, mà đặc biệt là dịch vụ và toàn cầu hóa hoạt động tài chính là hai lĩnh vực quan trọng nhất và tiến triển nhanh thức tạo tri thức trong hoạt động thường xuyên, liên tục của quản lý kinh doanh đòi hỏi phải được tiến hành trên nền của các kho thông tin và dữ liệu phong phú phản ánh mọi mặt phức tạo, đa dạng và luôn biến động của thị trường. Và khác với tri thức để sống và để làm thường có ý nghĩa phổ quát và ổn định, tri thức ở đây thường đòi hỏi phải đáp ứng những nhu cầu trực tiếp, nhất thời, có tính chuyên biệt cho từng lĩnh vực, từng tình huống, và không nhất thiết phải thỏa mãn các tính chất đầy đủ, phi mâu thuẫn, không nhất thiết phải hoàn toàn chắc chắn, nhưng phải giúp cho người quản lý lấy những quyết định kịp thời để không bỏ lỡ thời cơ của công việc kinh phát triển vũ bảo của công nghệ thông tin và truyền thông trong vài thập niên gần đây đã tạo ra một môi trường tuyệt vời kích thích và thúc đẩy loại hoạt động tri thức tạo tri thức nói trên trong quản lý kinh doanh, và cũng trong nhiều hoạt động xã hội, văn hóa khác. Có thể nói, công nghệ thông tin và truyền thông đã làm thay đổ bản chất vai trò của thông tin và tri thức từ chỗ là tiềm năng trở thành hiện thực, từ vị trí thụ động chuyển thành một sức mạnh chủ động sáng tạo nên sự giàu có của xã hội. Chính nhờ sự lớn mạnh và phổ biến nhanh chóng của các công nghệ đó mà các nguồn thông tin, dữ liệu được thu thập, tổ chức rộng khắp, truyền đưa vào trao đổi gần như tức thời, được xử lý nhanh chóng, được khai phá và tinh luyện thành tri thức cần thiết... để kịp thời giúp cho người quản lý có được những quyết định đúng nghệ thông tin có tác động to lớn đến các ngành kinh tế, đem đến cho các ngành kinh tế sức mạnh chủ động của thông tin và tri thức, và đồng thời, bản thân nó cũng là một ngành kinh tế tri thức phát triển hết sức nhanh chóng; có thể nói đó là ngành kinh tế tri thức giữ vai trò chủ đạo trong việc chuyển biến nền kinh tế thế giới hiện nay sang nền kinh tế tri thức. Các sản phẩm của công nghệ thông tin như máy tính, các thiết bị truyền thông, các loại phần mềm, chứa trong chúng biết bao tri thức phong phú đã được tích lũy, để từ đó giúp con người tạo ra tri thức mới, và làm cho tri thức có hiệu quả trng đời sống. Và vì vậy, ngoài ý nghĩa của tri thức trong quản lý kinh doanh như trình bày ở trên, ý nghĩa củ "tri thức tạo tri thức" còn được thể hiện rõ ràng trong chính các sản phẩm của công nghệ thông Nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức trong tương laiTa đã nói đến những tiến triển của vai trò tri thức trong quá trình phát triển kinh tế xã hội loài người, và sữ chuyển biến hiện nay sang một nền kinh tế và xã hội mà thông tin và tri thức là nguồn lực có vị trí chủ đạo. Nhưng, nền kinh tế thông tin, xã hội tri thức mới ở bước đầu khẳng định sự hiện hữu. Trong tương lai, nền kinh tế đó, xã hội đó sẽ có hình thù như thế nào, khó mà tiên đoán được đầy đủ, nhất là trong một môi trường kinh tế xã hội càng ngày càng lắm đổi thay và biến động. Tuy nhiên, dù không vẽ một bức tranh tương lai để ngắm, thì con người vẫn phải dự tính và chuẩn bị cho những yêu cầu của các dự tính đó. Mà nói cho cùng thì tương lai sẽ ra sao chính là phụ thuộc vào những dự tính ngắn hạn cùng những thành công và thất bại của những dự tính đó. Trên ý nghĩa đó, khắp thế giới, từ các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Tây Âu, đến các nước đang phát triển, đều tùy theo trình độ phát triển mà có những chính sách, biện pháp nhằm xây dựng cơ sở cho nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức của vực kinh tế thông tin và tri thức là khu vực năng động nhất trong nền kinh tế của nhiều nước, đặc biệt ở các nước phát vực này bao gồmCác hoạt động kinh tế xã hội và sản xuất công nghiệp có sử dụng các dịch vụ thông tin và truyền thông;Công nghiệp nội dung content industries, mà sản phẩm là nội dung thông tin và tri thức của mọi ngành kinh tế, khoa học, văn hóa, nghệ thuật... được tổ chức, ghi chữ bằng các phương tiện cùa công nghệ thông tin như đĩa từ, CD ROM;Bản thân các ngành công nghiệp tin học và truyền thông, làm ra máy tính và phần mềm, các dịch vụ liên quan đến máy tính, các thiết bị và dịch vụ viễn thông, các linh kiện vi điện tử, các thiết bị văn phòng vực này chiếm một tỷ trọng ngày càng lớn trong nền kinh tế, có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn bất kỳ khu vực nào khác, và cũng tạo thêm được nhiều việc làm nhất. Theo số liệu của các nước trong Cộng đồng châu Âu EU thì các doanh nghiệp và người tiêu thụ của EU trong năm 1997 đã chi tiêu cho các sản phẩm và dịch vụ của khu vực này nhiều hơn cho các khu vực ôtô, sắt thép và hàng không cộng lại. Từ năm 1995 đến nay, tốc độ tăng trưởng GDP trong khu vực kinh tế thông tin này dao động trong khoảng 7,5 - 9%, trong khi tốc độ tăng trưởng GDP nói chúng là 2-3%; tốc độ tăng việc làm của khu vực này trong năm 1996 và 1997 là 7% và 8,8%, trong khi đối với toàn nền kinh tế nói chung là 0,5% và 0,6%. Việc sử dụng các sản phẩm và dịch vụ tin học và truyền thông ngày càng phổ số liệu 1998 tại Mỹ cứ 100 lao động "cổ trắng" thì có 103 máy vi tính và cứ 100 dân thì có 46 máy vi tính. Các con số tương ứng này ở EU là 78 và 33. Số người dùng mạng Internet hiện nay đã vượt quá 200 triệu và vẫn tăng với tốc độ hàm mũ, thương mại điện tử mới bùng nổ vài ba năm gần đây, năm 1998 đạt doanh số 30 tỷ USD, ước tính đến 2002 sẽ đạt hơn 300 tỷ và đến 2005 sẽ đạt 1000 tỷ! Ta chú ý rằng khu vực kinh tế thông tin cũng là khu vực sản sinh ra những doanh nhân giàu có nhất thế giới; đến năm 1995, tại Mỹ, trong số 20 người giàu nhất nước có đến 14 doanh nhân trong khu vực này, đứng đầu là Bill Gates, sau đó là những tên tuổi nổi tiếng như P. Allen, chính sách và biện pháp nhằm tích cực chuẩn bị cho việc phát triển nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức ở các nước tuy có những điểm khác nhau tùy thuộc vào trình độ phát triển của mình, nhưng cũng có nhiều điểm chung có thể xem như những yêu cầu cơ bản của kinh tế và xã hội tri thức, đó là xây dựng một kết cấu hạ tầng thông tin vững chắc và phong phú trên cơ sở phát triển mạng các xa lộ thông tin và tham gia Internet; phát triển một văn hóa kinh doanh mới dựa trên công nghệ thông tin và tri thức để tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; đào tạo lại lao động và tạo việc làm; cải tổ hệ thống giáo dục và phổ cập việc học, học liên tục, học suốt đời cho mọi người; phát triển các ngành công nghiệp nội dung; đẩy mạnh và liên tục cải cách tổ chức, Trong chính sách của nhiều nước, cũng đã đề cập đến vai trò quan trọng có tính chất đi đầu và nêu gương của các cơ quan nhà nước và khu vực công cộng trong quá trình chuyển biến sang một xã hội tri Những vấn đề mới nảy sinh của kinh tế và xã hội tri thứcThông tin và tri thức đang nhanh chóng trở thành nguồn lực chủ đạo của các nền kinh tế phát triển. Trong nhiều ngành công nghiệp, tri thức đang thay thế vốn, tài nguyên và lao động với tư cách là nhân tố cạnh tranh có tính quyết định. Tri thức chấm sâu vào mọi mặt của quá trình tổ chức và quản lý, từ việc thiết kế đến sản xuất sản phẩm, từ việc tìm hiểu nhu cầu khách hàng đến năng lực phán đoán và hành động mau lẹ để chớp lấy những cơ hội mới của kinh doanh... Công nghệ thông tin và truyền thông đã giúp thông tin và tri thức phát huy được những mặt mạnh của mình con người thâm nhập tới mọi nguồn tri thức một cách dễ dàng và kịp thời; tạo ra nhiều cơ hội hợp tác vượt qua các giới hạn về không gian, thời gian và khác biệt văn hóa; làm tăng giá trị của các nguồn tri thức do được nhân bản, cung cấp và trao đổi thuận tiện... Thông tin và tri thức còn có một thuộc tính cơ bản là nói chúng, sau khi sử dụng không những không mất đi mà càng sử dụng càng được hoàn thiện để tăng thêm giá các thuộc tính nói trên của thông tin và tri thức, các nguồn lực này có thể mang lại những "tỷ suất lợi nhuận tăng" increasing returns cho các ngành kinh tế tri thức, và đồng thời với tính năng động, dễ đổi thay và biế động của mình, chúng cũng có thể mang lại nhiều đổi thay và biến động cho đời sống kinh tế. "Tài chính hóa", kinh tế, rồi tiếp thêm "tri thức hóa" kinh tế, nền kinh tế thị trường tiếp nhận liên tiếp những tác nhân chủ đạo dễ gây những thay đổi và biến động, làm cho nền kinh tế và xã hội từ nay càng trở nên có nhiều khả năng biến động hơn, có nhiều tính bất định hơn. Phát triển và tiến bộ không ngừng trong bất định và biến động liên tiếp, phải chăng đó là một xu thế của kinh tế, xã hội trong hiện tại và tương lai?Con đường tiến đến kinh tế thông tin và xã hội tri thức tất nhiên không phải toàn những điều tốt đẹp. Nhiều vấn đề xã hội mới sẽ nảy sinh, nhiều mâu thuẫn trong nội bộ từng quốc gia và trong quan hệ quốc tế sẽ đòi hỏi được giải quyết. Xã hội tri thức hy vọng sẽ mang lại lợi ích cho tất cả mọi người, nhưng chắc không thể cho mọi người những năng lực ngang nhau. Hiện nay, ở nhiều nước phát triển, lực lượng lao động trong các khu vực sản xuất công nghiệp và nông nghiệp chỉ còn dưới 30%, còn hơn 70% là trong các khu vực thông tin và dịch vụ. Có thể hình dung tương lai, đại đa số lao động xã hội sẽ làm việc trong hai khu vực thông tin và dịch chất tri thức trong hai loại lao động đó có khác nhau, và từ đó có nảy sinh những xung đột mới giữa các giai tầng khác nhau của xã hội. Con đường tiến đến kinh tế tri thức và xã hội tri thức cũng không phải đồng đều cho mọi nước. Các nước chậm phát triển có thể dễ mua được máy vi tính rẻ tiền, nhưng làm sao chó thể mau chóng có năng lực và trình độ nhảy vọt, vượt qua giai đoạn? Các nước phát triển thúc giục toàn cầu hóa thương mại, nhưng toàn cầu hóa ngay trong khi quá chênh lệch trình độ phải chăng sẽ dẫn đến một tình trạng bất bình đẳng trầm trọng mới. Nhiều nhà khoa học, kinh tế và xã hội đã đề xuất kiến nghị cần xem xét việc thiết lập những quan hệ toàn cầu về xã hội song song với quá trình toàn cầu hóa kinh tế, nhưng quan hệ như thế nào là công bằng, và cơ chế nào buộc được mọi nước phải chấp nhận?Norbert Wiener 1894 - 1964 là một nhà toán học và triết học Mỹ, người lập nên ngành khoa học - điều khiển Nhận thức về một nền kinh tế và xã hội đang biến đổi1. Một lý thuyết kinh tế mới cho kinh tế tri thức?Dù mới là những bước đầu, nhưng nền kinh tế thế giới đã chuyển biến sang một giai đoạn phát triển mới, có những khác biệt rõ ràng về chất so với các giai đoạn trước. Thông tin và tri thức trở thành một nguồn lực chủ đạo của phát triển kinh tế, nhưng nguồn lực đó vận hành như thế nào, ta chưa hiểu được đầy đủ; một lý thuyết kinh tế đặt tri thức vào vị trí trung tâm của quá trình tạo ra của cải có khả năng giải thích mọi hiện tượng mới lại trong đời sống kinh tế là cần thiết, nhưng ta chưa có đủ kinh nghiệm để hình thành một lý thuyết như vậy. Ta chỉ biết rằng một lý thuyết như vậy, nếu có, chắc phải khác nhiều với những lý thuyết đã có, cổ điển hay tân-cổ điển, Keynes hay tân Keynes. Các giả thiết thường được dùng trong các lý thuyết đã có như giả thiết về cạnh tranh hoàn toàn và đầy đủ, giả thiết về trọng cung hay trọng cầu... khó thích hợp để làm căn cứ cho lý thuyết có một mẫu số chung cho các loại tri thức khác nhau để có thể hình dung một cách đánh giá định lượng tri thức, do đó một mô hình toán học cho kinh tế tri thức còn là một điều xa vời. Làm thế nào để đánh giá được tác động và hiệu quả của tri thức trong những cải cách và đổi mới, và nói chung đánh giá được năng suất của tri thức, trong khi chi phí đầu tư cho tri thức ở các nước phát triển đã lên đến khoảng 20% GDP hàng năm? Trong sách Rethinkinh the Future, xuất bản năm 1997, hàng chục nhà khoa học hàng đầu ở Mỹ đã thảo luận về hàng loạt vấn đề cần được tư duy lại cho tương lai, tập trung quanh 3 chủ đề lớnCon đường cũ dừng ở đây, tương lai không phải là sự tiếp tục của quá khứ, thế giới đã thay đổi và kiểu tư duy tuyến tính không còn thích hợp với một thế giới phi tuyến;Thời mới đòi hỏi những cách tổ chức mới, người thắng cuộc trong thế kỷ 21 sẽ là những người có năng lực biến tổ chức của mình thành một cái gì đó linh hoạt như chiếc xe jeep, có khả năng phản ứng nhanh, chuyển hướng nhanh trong một miền đất đầy trắc trở và bất định;Rồi chúng ta sẽ đi đâu? Ta cần có một tầm nhìn, một định hướng mục tiêu về tương lai, nhưng không phải bằng cách nhìn vào một bản đồ có sẵn. Không có bản đồ nào cho miền đất chưa khám phá; thay vào đó những người đi đầu sẽ nhìn về phía trước, sáng tạo những ý tưởng mới, phát hiện những chân trời mới, vạch đường để hấp dẫn mọi người cùng duy lại trên cơ sở các phương pháp khoa học, nhưng phải là kiểu tư duy khoa học có đổi mới. Phương pháp khoa học truyền thống xem mục đích của khoa học là phát hiện chân lý, tìm kiến các qui luật để giải thích, dự đoán và điều khiển các sự kiện. Nhưng thế nào là đúng, là sai trong thế giới phức tạp của tự nhiên, của kinh tế, xã hội? Và phải chăn là hợp lý hơn nếu xem mọi lý thuyết khoa học đều có thể sai, khoa học không đi tìm cái luôn luôn đúng, mà tìm kiến các tri thức được hoàn thiện dần bằng phương pháp "thử và sai", giả thuyết và bác bỏ; mục đích của khoa học là "giải bài toán", tức là cung cấp những lời giải chấp nhận được cho những vấn đề mà con người quan Một vài cách tiếp cận tìm hiểu kinh tế và xã hội tri thứcCác hệ thống kinh tế xã hội vốn đã là những hệ thống lớn, phức tạp; hiện nay khi chuyển sang giai đoạn của kinh tế tri thức và xã hội tri thức, chúng lạu càng trở nên phức tạp hơn bội phần do tác động to lớn củanhững yếu tố thường xuyên biến động và bất định. Các lý thuyết trước đây thường tìm cách đơn giản hóa bằng các giả thuyết qui hành vi của hệ thống về các quan hệ giữa một số thành phần chủ yếu đã lược bỏ tính bất định, rồi từ đó thiết lập các mô hình, và từ nghiên cứu, phân tích trên các mô hình mà rút ra các nhận định, phán đoán, kiến nghị... Nhiều mô hình lý thuyết về kinh tế trước đây được xây dựng trên các giả thuyết về cân đối chẳng hạn cân đối cung - cầu đã là căn cứ cho việc lập kế hoạch, điều tiết thị trường Việc bỏ qua các yếu tố bất định trong một chừng mực nào đó là có thể chấp nhận để có được những mô hình bất định lại trở thành chủ yếu có tác động gần đúng các hệ thống thực tế, nhưng khi cái bất định lại trở thành chủ yếu có tác động quyết định đến hành vi của hệ thống thì việc tìm kiếm các mô hình như vậy trở thành vô lý thuyết kinh tế tân - cổ điển thường giả thiết là nền kinh tế tuân theo luật "liên hệ ngược âm" để tự điều chỉnh về trạng thái cân đối. Brian Arthur nhìn thấy rằng luật liên hệ ngược âm có cùng một hiệu quả như giả thuyết kinh tế về "tỷ suất lợi nhuận giảm" diminishing returns - trong điều kiện sản xuất hàng hóa vật chất, sản xuất càng nhiều thì có xu thế lợi nhuận thu được trên mỗi đơn vị sản phẩm sẽ giảm xuống.Trong kinh tế tri thức, khi sản phẩm hàng hóa là thông tin, tri thức và các ý tưởng, thì luật tỷ suất lợi nhuận giảm trong nhiều trường hợp lại nhường chỗ cho luật "tỷ suất lợi nhuận tăng" increasing returns. Trong các doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận tăng thì cơ chế liên hệ ngược dương cũng hoạt động để củng và tăng cường những thành tựu đạt được, và do đó không trở về trạng thái ổn định của cân đối mà có xu hướng tồn tại trong trạng thài thường xuyên bất ổn định. Hệ quả của những khảo sát như vậy có thể là Trong nền kinh tế mà luật "tỷ suất lợi nhuận giảm" chi phối thì liên hệ ngược âm hoạt động, hệ thống có xu thế đi đến ổn định và cân đối, do đó có thể quản lý bằng kế hoạch hóa; ngược lại, trong nền kinh tế mà luật "tỷ suất lợi nhuận tăng" chi phối thì liên hệ ngược dương hoạt động, hệ thống phát triển thường xuyên trong bất định, bất ổn định và không cân thực tế, các nền kinh tế là những hệ thống phức tạp và phi tuyến thường bao gồm cả hai loại liên hệ ngược, âm và dương; trong những hệ thống như vậy, có thể có nhiều những trạng thái ổn định bộ phận và hệ thống thường vận động giữa những trạng thái ổn định bộ phận có một cách không ổn định và khó mà tiên đoán được. Nhưng, theo bất định, bất ổn định, mất cân đối trong các hệ thống phức tạp của tự nhiên và kinh tế xã hội không nhất thiết ohải đi đến hỗn loạn và hủy diệt, mà các hệ như vậy thường có cấu trúc và năng lực tự tổ chức một cách tự phát spontaneously self - organizing của mình. Prigogine, và sau đó, Arthur đều xem rằng nền kinh tế là một hệ thống tự tổ chức. Chú ý rằng, trong cái hệ thống lớn là nền kinh tế, bất định, không cần đối và tự tổ chức đó, có cả con người là thành viên tích cực. Vì vậy, ở đây con người không phải ngoài hệ thống để lập kế hoạch cho sự phát triển của nó, mà tham gia trực tiếp vào sự phát triển đó bằng khả năng thích nghi, năng lực sáng tạo và đổi mới của trò tham gia trực tiếp của con người với tư cách là thành viên đang tư duy thinking participant trong các hệ thống kinh tế đã được nhà tài chính và kinh tế học nổi tiếng phân tích một cách độc đáo trong lý thuyết về tính phản xạ. Sự tham gia của con người đang tư duy trong các hệ thống kinh tế và xã hội có tính chất hai chiều vừa là thụ động với tư cách người tìm hiểu và suy nghĩ về hệ thống, vừa là tích cực với tư cách người tham gia quyết định có ảnh hưởng đến hành vi và kết quả của hệ thống. Và hai tư cách đó được thực hiện đồng thời. Do là đồng thời nên thường gặp những tình huống mà con người khi suy nghĩ để làm quyết định không thể dựa vào tri thức đầy đủ và chính xác về hệ thống, đơn giản là vì chưa thể có những tri thức như vậy, tình trạng của hệ thống còn phụ thuộc vào chính quyết định của những người tham quả, vì vậy, thường khác với dự kiến, và do đó lại thêm một yếu tố bất định cho bước suy nghĩ tiếp theo. Trong những nền kinh tế chịu nhiều tác động của những yếu tố linh hoạt và nhạy cảm như tài chính, tri thức thì tính phản xạ lại càng có ý nghĩa rất quan trọng. Phản xạ xảy ra trong bất định, và chức đựng tiềm năng thường trực làm tăng tính bất định của hệ thống. Bất định, bất ổn định, nếu không được điều hòa bởi những yếu tố tự tổ chức của hệ thống thì có nguy cơ dẫn đến khủng hoảng. Vì vậy, toàn cầu hóa kinh tế hiện nay cẩn phải được đi kèm với những thỏa ước quốc tế thích hợp trong khi chưa có dấu hiệu nào sẵn sàng cho một giải pháp toàn cầu hóa xã hội tương ứng để có thể tránh đi đến khủng Vai trò và tác động của Công nghệ thông tinSự phát triển nhanh chóng và ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin đã góp phần quan trọng cho việc tạo ra những nhân tố năng động mới của nền kinh tế và xã hội, và do đó, cho quá trình hình thành nền kinh tế thông tin và xã hội thông tin. Điều đó cũng có nghĩa là công nghệ thông tin đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm cho môi trường kinh tế xã hội của ta biến đổi "tận gốc rễ", và ta đã nhận thức được rằng đã đến lúc ta phải tự đổi chính mình để có thể tồn tại được torng môi trường mới đó. Như đã trình bày ở trên, môi trường mới đó không còn có thể coi là bất định và ổn định, ta không còn có thể điều khiển nó theo những con đường vạch sẵn; môi trường mới chứa đầy những yếu tố biến động và bất định, là không ổn định và không tiên đoán được, có độ phức tạp ngoài năng lực điều khiển của các phương pháp truyền thống. Tuy nhiên, nói thế không có nghĩa là con người đánh phó mặc cho môi trường đưa phản xạ của các hệ thống kinh tế xã hội khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của sự tham gia tích cực của con người trong các hệ thống đó; hệ thống lớn, phức tạp, về tổng thể là không ổn định, nhưng không phải là không ổn định ở mọi lúc mọi nơi, như trên đã nói, hệ thống thường có những trạng thái ổn định bộ phận và nó vận động giữa các trạng thái ổn định bộ phận đó một cách không tiên đoán được. Con người không đứng ngoại để vạch cho hệ thống những mục tiêu định sẵn, những kế hoạch chung cứng nhắc, mả phải tự nhúng mình vào hệ thống, thích nghi với hệ thống, thu nhập thông tin và tri thức để đánh giá tình hình và đưa ra giải pháp hành động kể cả xác định mục tiêu và kế hoạch một cách cục bộ cho những yếu tố tạm thời ổn định, và vì mọi hiểu biết và hành động đều có thể sai, nên phải thường xuyên đánh giá lại tri thức cũ, giải pháp cũ để có thể hiểu biết mới, giải pháp mới cho tình hình đã thay vậy, luôn luôn học, có tri thức và biết dùng tri thức để tạo tri thức, có năng lực thích nghi, linh hoạt trước mọi đổi thay, có năng lực sáng tạo và đổi mới là những phẩm chất mà từng con người cũng như các tổ chức kinh tế xã hội cần phải có nếu muốn tồn tại, phát triển và có vị trí xứng đáng trong môi trường lượt mình, Công nghệ thông tin, với những thành tựu tuyệt vời đã đạt được cũng như đầy hứa hẹn trong tương lai, đang và sẽ trợ giúp đắc lực cho con người có được những năng lực nói trên. Công nghệ thông tin đã được ứng dụng rộng rãi để thiết lập các cơ sở dữ liệu và các kho thông tin phong phú trong mọi lĩnh vực, mọi cơ quan, doanh nghiệp; đang được sử dụng tích cực để trợ giúp con người trong nhiều hoạt động trí thuệ, đặc biệt trong việc tìm kiếm và phát hiện tri thức để trợ giúp quyết định trong kinh doanh và các hoạt động kinh tế, và từ chỗ cung cấp được những thông tin và trí thức kịp thời mà làm tăng khả năng của con người cũng như các tổ chức trong việc phản ứng linh hoạt, thích nghi một cách hữu cơ, và tự thay đổi trước những biến động khôn lường của môi trường. Cũng cần nói thêm một điều là trong môi trường mới, để tăng cường những năng lực nói trên, học, việc học của mọi cá nhân, mọi doanh nghiệp, mọi tổ chức phải được xem là vấn đề trung tâm. Và ở vấn đề trung tâm này, công nghệ thông tin hoàn toàn có thể cung cấp những công cụ, phương pháp và phương tiện mới để thực hiện một cách sâu rộng và có hiệu Vài ý kiến về con đường hội nhập của ta1. Về chính sách quốc gia phát triển và ứng dụng Công nghệ thông tinTrên ý nghĩa đó, vào đầu những năm 90, Chính phủ đã ra một Nghị quyết quan trọng xác định Chính sách quốc gia về phát triển và ứng dụng Công nghệ thông tin, lấy mục tiêu chủ yếu là xây dựng cơ sở cho một kết cấu hạ tầng thông tin có khả năng đáp ứng các nhu cầu thông tin cho quản lý nhà nước và cho các hoạt động kinh tế xã hội, đồng thời phát triển từng bước những cơ sở cho một nền công nghiệp công nghệ thông tin của đất nước. Chính sách đó được tổ chức thực hiện thông qua một Chương trình quốc gia về Công nghệ thông tin với một hệ thống các dự án, các biện pháp. Và, trong mấy năm qua, công nghệ thông tin ở nước ta đã có những bước phát triển đáng chú ý. Tuy nhiên, vào thời điểm sắp kết thúc thập niên này nhìn lại, thì ta thấy những điều ta mong đợi cũng còn khá xa vời. Các dự án tin học hóa được thực hiện chậm chạp, chưa thể làm mầm mống cho một kết cấu hạ tầng thông tin của quốc gia, tình trạng nghèo thông tin vẫn là một yếu kém chưa được khắc phục bao nhiêu, các chính sách về đầu tư và tài chính chưa tạo được những khuyến khích cần thiết cho việc phát triển những mầm non mà ta tin rằng rất có triển vọng của công nghiệp công nghệ thông tin, đặc biệt là công nghệ phần mềm, công nghệ nội dung...Nghị quyết của Chính phủ ra đời từ năm 1993, về cơ bản là đáp ứng được những nhu cầu phát triển trong thập niên 90, nhưng cũng cần được cập nhật để thích ứng với những tiến bộ mới và nhữg đòi hỏi mới. Chúng ta mong rằng sẽ có những đánh giá và phân tích nghiêm túc về những gì đã đạt được và cả những gì chưa đạt được, đồng thời sẽ có những dự tính thiết thực và những biện pháp tích cực cho tương Về những bước đường tiếp tụcQua thực tiển mấy năm phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin vừa qua, tuy nhiều điều ta mong đợi còn chưa đạt được, nhưng ta cũng nhìn thấy nhiều khả năng tiềm tàng còn chưa khai thác, nhất là nhiều năng lực to lớn của thế hệ trẻ còn chưa có điều kiện để được bồi dưỡng và phát huy. Một điều có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển công nghệ thông tin là những nhu cầu của môi trường kinh tế xã hội. Một nền kinh tế thị trường phát triển với nhiều doanh nghiệp tự do đua tranh trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh, một nền hành chính quản lý đổi mới và năng động, một hệ thống dịch vụ văn hóa, xã hội phong phú... sẽ cần đến thông tin và tri thức và cũng sẽ lớn mạnh lên nhờ có thông tin và tri thức. Vì vậy, điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là công cuộc đổi mới của ta cần tạo thuận lợi thúc đẩy việc phát triển một môi trường kinh tế xã hội như vậy để trong đó công nghệ thông tin có thể phát triển nhanh chóng. Nói đúng hơn, công nghệ thông tin vừa có thể được ứng dụng để thúc đẩy sự phát triển của một môi trường kinh tế xã hội như vậy, vừa do sự lớn mạnh của môi trường đó mà chính nó lại phát triển tiếp chuyển biến sang nền kinh tế thông tin và tri thức cùng với quá trình toàn cầu hóa kinh tế nhanh chóng đã làm phân hóa "Thế giới thứ ba", thế giới đó không còn có ký do để được coi như một thế giới riêng tự thân nữa, mà vở ra thành 4 loại nước khác nhau loại các nước khổng lồ về dân số, loại các nước có nhiều tài nguyên dầu mỏ để xuấr khẩu, và ở hai cực là loại các nước "công nghiệp hóa mới" có khả năng hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới và loại các nước có nguy cơ bị dạt ra rìa của dòng chảy. Ta không thuộc vào hai loại trước, và chắc cũng không muốn để rơi vào nền kinh tế thế giới, trong đó phát triển công nghệ thông tin và xây dựng dần các yếu tố của kinh tế thông tin và tri thức là một nhân tố quan trọng, nếu không nói là quyết với các nước đang phát triển đang phấn đấu vươn lên hội nhập vào nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức trong tương lại, Ủy Ban Khoa học và công nghệ vì Phát triển của Liên hiệp quốc khuyến nghị một số nội dung chiến lược cần được tập trung thực hiện trong chính sách phát triển công nghệ thông tin như sauHướng việc sản xuất các sản phẩm công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ thiết thực các mục tiêu xã hội và tăng ưu thế cạnh tranh cho nền kinh tế;Phát triển nguồn tài nguyên nhân lực cho các chiến lược công nghệ thông tin quốc gia bằng cách đẩy mạnh và mở rộng các hình thức học, học liên tục và học suốt đời;Cải tiến quản lý sự phát triển công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý các tổ chức vì sự phát triển quốc gia;Phát triển các mạng thông tin và kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia, và thực hiện các biện pháp để mở rộng khả năng truy cập của mọi người đến các mạng đó;Khuyến khích các nguồn đầu tư và tăng cường đầu tư tài chính từ nhà nước cho phát triển công nghệ thông tin và cho kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia;Tạo mọi khả năng để truy cập tới các nguồn tri thức khoa học và kỹ thuật trên thế giới;Theo dõi và khi có cơ hội, tham gia vào việc định "các luật chơi" quốc tế liên quan đến kinh tế tri thức toàn cầu hóa, như về kết cấu hạ tầng thông tin toàn cầu, về thương mại điện tử, về các chuẩn, về an toàn thông tin, về quyền sở hữu trí tuệ...Chắc rằng các khuyến nghị đó cũng thích hợp với hoàn cảnh của nước ta, và ta có thể tham khảo trong khi cập nhật các chính sách và kế hoạch phát triền công nghệ thông tin của ta trong giai đoạn sắp thế kỷ sắp qua, và một thế kỷ mới sắp đến. Những gì xảy ra trong thế kỷ 20 này thực tế đã khác xa với những dự đoán từ cuối thể kỷ 19. Cuộc sống đang biến đổi nhanh chóng, và thề kỷ 21 chắc sẽ còn lắm đổi thay bất ngờ, khác với những điều mà hiện nay con người tiên đoán. Nhưng không vì vậy mà ta không dự đoán tương lai. Chỉ có điều là, ta phải xem mọi dự đoán đều có thể sai, và chuẩn bị sẵn sàng những năng lực để ứng phó linh hoạt và kịp thời trước mọi đổi thay. Thích nghi, sáng tạo và đổi mới không ngừng chính là những phẩm chất và bản lĩnh mà ta cần trang bị cho mình để vửng vàng đi vào thế kỷ 21, và nói như Biil Gates, ngày nay chuẩn mực chính là sự thay đổi. Phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong mọi lĩnh vực, làm cho xã hội giàu có thông tin và tri thức là nhân tố có ý nghĩa quan trọng để trau dồi các phẩm chất và bản lĩnh nói trên, tạo khả năng cho đất nước ta vươn lên trong mọi biến động và thử thách, vững vàng hội nhập một cách có hiệu quả vào xã hội tri thức toàn cầu trong tương lai.
1. Hiểu rõ tri thức là gì ? "Tri thức là gì" là câu hỏi nhận được nhiều sự quan tâm của mọi người, nhưng không có một lời giải thích hay định nghĩa chính xác về khái niệm này. Ngay từ khi còn nhỏ, cất tiếng khóc chào đời đến khi bắt đầu tiếp xúc với những kiến thức đơn giản, thì các bạn đã hình thành con người có tri thức, từ việc tiếp thu kiến thức đến áp dụng nó một cách hoàn hảo. Từ thời xa xưa, tri thức là người nuôi dưỡng, bảo vệ, truyền bá những giá trị truyền thống cũng như nét đẹp văn hóa mà cha ông ta để lại, sau lớn dần nó hình thành tri thức chuyên môn, khả năng sẵn có của chính mình. Có rất nhiều định nghĩ khác nhau về tri thức, ở các lĩnh vực hay hoàn cảnh khác nhau, người ta đánh giá về khái niệm tri thức là gì? Tri thức là tất cả những dữ liệu, thông tin, kỹ năng,... có được qua trải nghiệm thực tế hoặc học tập. Tri thức có thể chỉ về sự hiểu biết về một đối tượng hay sự vật về lý thuyết và thực hành. Có 2 dạng tồn tại của tri thức là tri thức ẩn và tri thức hiện. Tri thức hiện là những thứ được thể hiện qua văn bản, âm thanh, hình ảnh,... được truyền đạt dễ dàng qua hình thức giáo dục. Tri thức ẩn là những tri thức được thu lại nhờ sự trải nghiệm thực tế rất khó truyền đạt, chuyển giao mà phải tự trải nghiệm và tập luyện. Người tri thức có thể hiểu là người lao động trí óc, là người có học, am hiểu nhiều kiến thức và cũng có thể là người khám phá và truyền bá tri thức ở các chuyên môn nhất định, sự tiếp nối đó là trong quá trình rèn luyện của con người, bạn phải là người tích cực tham gia phản biện xã hội, đưa ra ý kiến quan điểm cá nhân, tri thức là lương tâm của xã hội. Một xã hội giàu đẹp văn minh đòi hỏi người có tri thức cao, trải qua nhiều giai đoạn phát triển, tri thức càng ngày có sự tiến bộ cao, trau dồi để trở thành con người hiện đại, ai có tri thức nhiều người đó có sức mạnh, quyền lợi cao. Phụ huynh nhận thấy được những khó khăn của con em mình trong việc nâng cao tri thức mà đưa ra những phương pháp học tập tốt nhất, lựa chọn gia sư mang lại tri thức cho học sinh là phương pháp hiệu quả nhất phụ huynh có thể làm. 2. Vai trò của tri thức trong xã hội Tri thức có thể hiểu là sản phẩm đặc thù của xã hội, sự ra đời của tri thức thường gắn liền với sự hình thành của xã hội loài người. Do đó, không thể tách trí thức ra khỏi xã hội để định nghĩa xem tri thức là gì cũng như mong muốn hiểu sâu hơn về tri thức, đó là việc làm không tốt, tách tri thức ra khỏi xã hội giống như việc tách những con cá ra khỏi dòng nước đề tìm sự thích nghi hay hoạt động của cá. Vai trò của tri thức trong xã hội là rất cần thiết và quan trọng. + Khi con người có tri thức, có hiểu biết, am hiểu sâu rộng tới mọi vấn đề hay lĩnh vực xã hội, thì con người ta dễ dàng thực hiện được những mục tiêu, ham muốn, ước nguyện của bản thân, chỉ có tri thức được lấy bằng chính mồ hôi công sức thì mới mang lại được hiệu quả. Và hiển nhiên, một xã hội với những con người thành đạt giúp xã hội phát triển không ngừng về tri thức. Đơn giản rằng khi xã hội được hợp thành bởi cá nhân, nhưng sự kết hợp mang lại hiệu quả thì cần quá trình rèn luyện không ngừng đối với thế hệ trẻ, việc học tập như nào, trau dồi bản thân ra sao để tri thức mình mang lại cho xã hội có sự đóng góp hiệu quả nhất. + Khi nhu cầu xã hội ngày càng nâng cao, việc đáp ứng nhu cầu đòi hỏi mỗi công dân cần phải có, đặc biệt nhu cầu trong giáo dục và trách nhiệm của học sinh sinh viên là quan trọng. Con người có tri thức, kiến thức và nhận thức tốt, làm chủ tri thức bản thân là chủ trong cách sống của mình, biết bản thân mình làm gì, biết được nhu cầu xã hội đang đòi hỏi gì ở chính các bạn trẻ, mà không ngừng học hỏi. Vai trò của tri thức trong việc phục vụ những yêu cầu của xã hội, cũng góp phần trong việc thể hiện khả năng bản thân mình ở xã hội không ngừng phát triển lớn mạnh. + Khi trở thành con người có tri thức thì sống theo chuẩn mực đạo đức tốt, giữ gìn cũng như phát huy được những giá trị văn hóa tốt đẹp ông cha ta để lại. Một câu hỏi đề ra, nếu bản thân mỗi công dân không có am hiểu về tri thức trong sự nhìn nhận thì xã hội sẽ duy trì như thế nào. Tri thức hình thành được là nhờ sự tiếp thu kiến thức cũng như học hỏi được những kỹ năng, một xã hội sẽ lạc hậu, không có sự phát triển là xã hội còn xuất hiện những con người không có trí thức, một thành phần thừa trong xã hội. + Vai trò cuối cùng mà tri thức mang lại cho xã hội là sự hội nhập quốc tế, giao lưu học hỏi kiến thức hay những truyền thống tốt đẹp của các quốc gia khác là rất cần thiết, hay là tham gia các cuộc thi quốc tế mà các vấn đề cần quan tâm ở đây là ngôn ngữ tiếng anh phải thực sự tốt và chuyên môn cao. Xã hội sẽ được sánh ngang với các cường quốc năm châu, sự sáng tạo cũng như những phát minh hay, mới lạ thì công dân có tri thức là không thể thiếu, tri thức lúc này như là công cụ giúp giải quyết mọi vấn đề khó khăn không chỉ cho bản thân, gia đình mà còn cho cả xã hội vì lợi ích của đất nước. Nhận thức rất rõ việc học tập, cũng như biết được những giá trị tri thức thì mỗi học sinh sinh viên cần phải phát huy bản thân học hỏi trong nhiều lĩnh vực, phụ huynh cũng có giải pháp tốt nhất cho các bạn trẻ trong việc rèn luyện các kỹ năng mềm hay kiến thức chuyên sâu môn học, đó cũng là chặng đường giúp các bạn trẻ chuẩn bị tốt nhất để có hành trang tốt trên con đường đi tìm thành công và hỗ trợ học sinh và phụ huynh trong việc học tập của con em mình rất cần đến một gia sư chất lượng, hiệu quả. 3. Tiêu chí để trở thành con người tri thức Để trở thành công dân có tri thức tốt không phải ngày một ngày hai, mà cần một quá trình dài, cần sự quyết tâm cao, có được tri thức cho bản thân là một lợi thế tốt để mọi người có nhiều cơ hội trong cuộc sống tốt đẹp, lợi thế đi kèm có kết quả, phải biết vận dựng lợi thế đó như thế nào là đúng là chính xác thì khó khăn đối với thế hệ trẻ cũng như cha mẹ càng nâng cao. Tiêu chí để trở thành con người tri thức là quan trọng, các bạn nhìn vào đó để rèn luyện bản thân mình hơn và phụ huynh nhìn vào tiêu chí đó để đánh giá con em mình khi có những suy nghĩ trưởng thành và có sự tiến bộ cao. + Người có tri thức trước tiên là người biết được xã hội cần gì, bản thân hoàn cảnh của mình đáp ứng được bao nhiêu, sự nhìn nhận vấn đề thực tế giúp các bạn hoàn thành công việc một cách nhanh hơn, con số, số liệu thực tế là những gì người ta nhìn vào đó biết mình nên thay đổi gì, bổ sung gì để kết quả tốt nhất. + Khi biết được bản thân muốn gì thì mọi người cần đặt ra những mục tiêu cụ thể, đặt ra rồi thì phải bắt tay vào hành động, thời gian không đợi chờ ai, khi bạn nghỉ ngơi là bạn mất một khoảng thời gian dài lãng phí của mình trong khi mọi người đang học tập hay làm việc miệt mà, tri thức con người là rộng lớn, không ai quan tâm bạn lĩnh hội nó như thế nào, họ chỉ quan tâm kết quả mọi người mang lại ra sao. Do đó, hành động và đứng dậy thực hiện mục tiêu là cần thiết, dám hành động, dám theo đam mê, theo sở thích là lúc các bạn đứng lại đấu tranh cho quyền lợi bản thân, chứng tỏ tri thức của bản thân. + Tiêu chí về sức khỏe, nghị lực cũng quan trọng trong việc phát triển tri thức của con người, sức khỏe tốt mọi người có thể làm việc và cống hiến công sức vào công việc gì hay làm gì mà mình muốn, đặc biệt góp phần trong việc học tập là rất quan trọng. Nghị lực, lòng quyết tâm, sự kiên nhẫn, chịu khó là điều cần có đối với mỗi người công dân, đặc biệt đối với các bạn trẻ, khi học tập là nghĩa vụ mà các bạn phải hoàn thành và thực hiện. Rèn luyện cho bản thân những kỹ năng thấu hiểu, cảm thông, cảm nhận những vấn đề cũng là nền tảng phát triển về tri thức cho các bạn trẻ. + Để con người có tri thức tốt thì việc điều chính về hành động của bản thân là cần thiết trong văn hóa ứng xử, giao tiếp cũng như truyền đạt kiến thức cần có ở những con người có tri thức chuyên sâu. Điều chỉnh hành động ở đây được hiểu là bạn cần phải hoàn thiện được việc làm sai của bản thân một cách chủ động, tự giác. Không ai là hoàn hảo về mọi thứ, và bạn không có trách nhiệm với bản thân khi bắt buộc các bạn làm những điều vượt khỏi khả năng, vượt khỏi sự kiểm soát, cuộc sống là sự ganh đua, người kém cỏi phải chấp nhận tụt lùi phía sau, thay đổi bản thân là lúc mở ra cho mình con đường mới tươi sáng hơn. Có bao giờ các bạn tự hỏi và tự trả lời rằng tại sao có người giàu, người nghèo, người hạnh phúc vui vẻ lại có người hay than vãn, người có công việc ổn định, người lại ngồi chơi tìm việc không. Khi các bạn tự ý thức được câu trả lời trong việc tự hỏi bản thân thì các bạn đang dần trau dồi cho bản thân về tri thức cuộc sống. Cần có sự nhìn nhận sâu rộng trong các lĩnh vực của đời sống để phát triển bản thân hơn. 4. Cùng rèn luyện tri thức hiệu quả Tri thức được thể hiện qua nhiều lĩnh vực đời sống, trong kiến thức học tập, về kỹ năng mềm hay tri thức từ những hành động thực tế xung quanh chúng ta. Và đặc biệt, đối với thế hệ trẻ vẫn đang trong quá trình học tập thì tri thức trong việc tiếp thu kiến thức sách vở là quan trọng. Việc học tập trên trường lớp hay tự học ở nhà chưa đáp ứng đầy đủ điều kiện học tập của các bạn và lựa chọn gia sư tại nhà để củng cố kiến thức là quan trọng và nơi giúp phụ huynh có sự lựa chọn tốt nhất về tìm gia sư chất lượng, phù hợp với con em mình, nơi lòng tin tưởng luôn được đề cao. với nhiều tính năng hay hấp dẫn như giao diện trang web đẹp mắt, dễ tìm kiếm, thao tác sử dụng nhanh gọn và hiệu quả, dịch vụ tìm gia sư và tìm lớp dạy cho gia sư miễn phí. Và các bạn trẻ có thể chọn trong việc tiếp thu tri thức về các kỹ năng hay kinh nghiệm bản thân qua công việc dạy gia sư, không chỉ củng cố lại kiến thức cho bản thân trong việc truyền đạt kiến thức cho người khác mà nhận thức được ý thức của bản thân trong sự va chạm mới đối với cuộc sống xã hội, khi không còn được sống trong sự bao bọc của cha mẹ, khi trang bị cho bản thân đầy đủ tri thức rồi thì việc tự chủ trong hành động, trong suy nghĩ một cách đúng đắn là cao, tự chủ trong tri thức cũng là tự chủ và có trách nhiệm với tương lai sau này của chính các bạn. >> Tham khảo thêm Những bước để tìm thấy lửa học tập và cách học giỏi Những cuốn sách hay nên đọc mà bạn nhất định phải biết
Tri thức đã có từ lâu trong lịch sử, có thể nói từ khi con người bắt đầu có tư duy thì lúc đó có tri thức. Trải qua một thời gian dài phát triển của lịch sử, cho đến những thập kỷ gần đây tri thức và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế-xã hội mới được đề cặp nhiều. Vậy tri thức là gì?1. Khái niệm về tri rất nhiều cách định nghĩa về tri thức nhưng có thể hiểu “Tri thức là sự hiểu biết, sáng tạo và những khả năng, kỹ năng để ứng dụng nóhiểu biết sáng tạo vào việc tạo ra cái mới nhằm mục đích phát triển kinh tế -xã hội. Tri thức bao gồm tất cả những thông tin, số liệu, bản vẽ, tưởng tượngsáng tạo, khả năng, kỹ năng quan niệm về giá trị và những sản phẩm mang tính tượng trưng xã hội khác. Tri thức có vai trò rất lớn đối với đời sống –xã tế thế giới đang bước vào một thời đại mới, một trình độ mới. Đó là trình độ mà “nhân tố quan trọng nhất là việc chiếm hữu, phân phối nguồn trí lực và việc sáng tạo, phân phối và sử dụng tri thức trong các ngành kĩ thuật cao”. Tiêu chí chủ yếu của nó là lấy tri thức, trí óc làm yếu tố then chốt để phát triển kinh tế và tồn tại trực tiếp giống như các yếu tố sức lao động và tài nguyên. Đó là thời đại mà “Tri thức đã trở thành động lực chủ yếu của sự phát triển xã hội”, “Tri thức là tài nguyên là tư bản”, Tri thức là tâm điểm của cạnh tranh và là nguồn lực dẫn dắt cho sự tăng trưởng dài hạn dẫn tới những thay đổi lớn trong cách tổ chức sản xuất, cấu trúc thị trường, lựa chọn nghề nghiệp…2. Vai trò của tri thức trong đời sống-xã hộiTri thức đã và đang ngày càng trở lên quan trọng đối với đời sống xã hội. Nó tác động trực tiếp đến các lĩnh vực của xã hội kinh tế, chính trị, văn hóa giáo dục… Vai trò của tri thức đối với Kinh tế – Kinh tế tri thứcNền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó quá trình thu nhận truyền bá, sử dụng, khai thác, sáng tạo tri thức trở thành thành phần chủ đạo trong quá trình tạo ra của cải. Kinh tế tri thức có nhiều đặc điểm cơ bản khác biệt so với các nền kinh tế trước đó– Tri thức khoa học-công nghệ cùng với lao động kỹ năng cao là cơ sỏ chủ yếu và phát triển rất mạnh– Nguồn vốn quan trọng nhất, quý nhất là tri thức, nguồn vốn trí tuệ.– Sáng tạo và đổi mới thướng xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đảy sụ phát triển.– Nền kinh tế mang tính học tập.– Nền kinh tế lấy thị trường toàn cầu là môi trường hoạt động chính.– Nền kinh tế phát triển bền vững do được nuôi dưỡng bằng nguồn năng lượng vô tận và năng động là tri tiễn hai thập niên qua đã khẳng định, dưới tác động của cách mạng khoa học – công nghệ và toàn cầu hóa, kinh tế tri thức đang hình thành ở nhiều nước phát triển và sẽ trở thành một xu thế quốc tế lớn trong một, hai thập niên xuất hiện của các hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên tri thức. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế lấy sản xuất và kinh doanh tri thức làm nội dung chủ yếu. Tương lai của bất cứ doanh nghiệp nào cũng không chỉ phụ thuộc vào việc sử dụng tiền bạc, nguyên vật liệu, nguồn nhân lực và máy móc thiết bị…mà còn phụ thuộc vào việc xử lý và sử dụng những thông tin nội bộ và thông tin từ môi trường kinh doanh. Cách tốt nhất để tăng năng suất là tìm hiểu kiến thức chuyên môn mà hãng có được, sử dụng vì mục đích thương mại và những kiến thức này cần được phát triển không trị của những công ty công nghệ cao như các công ty sản xuất phần mềm và các công ty công nghệ sinh học không chỉ nằm trong những tài sản vật chất hữu hình, mà còn nằm trong những tài sản vô hình, như tri thức và các bằng sáng chế. Để trở thành một công ty được dẫn dắt bởi tri thức, các công ty phải biết nhận ra những thay đổi của tỉ trọng vốn trí tuệ trong tổng giá trị kinh doanh. Vốn trí tuệ của công ty, tri thức, bí quyết và phương pháp đội ngũ nhân viên và công nhân cũng như khả năng của công ty để liên tục hoàn thiện phương pháp sản xuất là một nguồn lợi thế cạnh tranh. Hiện có các bằng chứng đáng lưu ý chỉ ra phần giá trị vô hình của các công ty công nghệ cao và dịch vụ đã vượt xa phần giá trị hữu hình của các tài sản vật thể của các công ty đó, như các toà nhà hay thiết bị. Ví dụ như các tài sản vật thể của công ty Microsoft chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng giá trị được vốn hóa trên thị trường của công ty này. Phần lớn là vốn trí tuệ. Sau hai mươi năm thành lập, số nhân viên công ty tăng 6 nghìn lần, thu nhập tăng 370 nghìn lần, 1/10 số nhân viên trở thành triệu phú. Nguồn vốn con người là một thành tố giá trị cơ bản trong một công ty dựa vào tri kinh tế tri thức sẽ ngày càng làm xuất hiện nhiều sản phẩm thông minh. Đó là những sản phẩm có khả năng gạn lọc và giải thích các thông tin để người sử dụng có thể hành động một cách hiệu quả hơn. Ngay cả một chiếc bánh kẹp thịt cũng có thể trở thành một sản phẩm mới dựa trên tri thức bằng cách làm cho khách hàng biết cách sử dụng những thông tin về dinh dưỡng. Số lượng ka-lo và chất béo được in lên hóa đơn hoặc thậm chí trình bày thông tin đó trước khi khách đặt hàng. Thậm chí có những sản phẩm thông minh vừa có thể truyền đạt thông tin về sản phẩm vừa khuyên khách hàng nên làm gì từ tình hình vừa được thông tri thức –vai trò của nó trong kinh tế tri thứcVốn tri thức là tri thức được dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh với mục đích sinh lợităng thêm giá trị.Vốn tri thức là một yếu tố nổi bật nhất trong hàm sản xuất. Trong văn minh nông nghiệp thì sức lao động, đất đai và vốn là những yếu tố của sản xuất công nghiệp, vốn, đất đai và nhất là sức lao động trở thành hàng hóa với tư cách là những yếu tố quan trọng trong sự phát triển kinh tế-xã hội, góp phần chuyển xã hội phong kiến thành xã hội tư bản trong lịch sử. Còn trong kinh tế tri thức, yếu tố của sự phát triển nền kinh tế-xã hội không chỉ bao gồm vốn tiền tệ, đất đai và dựa trên lao động giản đơn mà chủ yếu dựa trên lao động trí tuệ gắn với tri thức. Như vốn tri thức trở thành yếu tố thứ nhất trong hàm sản xuất thay vì yếu tố sức lao động vốn tiền tệ và đất tri thức thực sự trở thành nguồn gốc động lực cho sự phát triển kinh tế-xã hội. Nước Mỹ nói riêng và các nước thuộc tổ chức OECD nói chung nhiều năm qua tăng trưởng ổn định với tốc độ cao là nhờ có sự phát triển của các ngành kinh tế dựa trên tri thức như các ngành công nghệ thông tin, viễn thông, vũ trụ, đầu tư, ngân hàng, tài chính, chứng khoán, bảo hiểm…Đồng thời chuyển đầu tư vốn tri thức từ các ngành truyền thống sang các ngành có hàm lượng tri thức cao. Ở các nước có nền kinh tế đang phát triển, đầu tư càng nhiều vốn tri thức thì mang lại giá trị gia tăng cang lớn, tỷ xuất lợi nhuận càng tri thức trong kinh tế tri thức đóng vai trò quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Vốn tri thức ở đây bao gồm các công nhân tri thức, các nhà quản lý có trình độ cao, các công nghệ tri thức đóng vai trò to lớn trong việc rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển. Sự xuất hiện kinh tế tri thức vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các nước kém và đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Các quốc gia kém và đang phát triển phải nhanh chóng tiếp cận với kinh tế tri thức, thông qua tri thức hóa các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, đặc biệt sớm hình thành các công nghệ cao để nhanh chóng đưa nền kinh tế đất nước đuổi kịp các nước phát Vai trò tri thức đối với chính trịTri thức đem lại cho con người những sự hiểu biết, kiến thức. Người có tri thức là có khả năng tư duy lý luận, khả năng phân tích tiếp cận vấn đề một cách sát thực, đúng đắn. Điều này rất quan trọng, một đất nước rất cần những con người như vây để điều hành công việc chính trị. Nó quyết định đến vận mệnh của một quốc gia. Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu một sự chuyển hướng mạnh mẽ trong nhận thức về nguồn lực con người. Đại hội nhấn mạnh “Phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt đông” chiến lược phát triển con người đang là chiến lược cấp bách. Chúng ta cần có những giải pháp trong việc đào tạo cán bộ và hệ thống tổ chức Tuyển chọn những người học rộng tài cao, đức độ trung thành với mục tiêu xã hội chủ nghĩa, thuộc các lĩnh vực, tập trung đào tạo, bồi dưỡng cho họ những tri thức còn thiếu và yếu để bố trí vào các cơ quan tham mưu hoạch định đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước với những qui định cụ thể về chế độ trách nhiệm quyền hạn và lợi xếp các cơ quan nghiên cứu khoa học –công nghệ và giáo dục-đào tạo thành một hệ thống có mối liên hệ gắn kết với nhau theo liên ngành, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho hợp tác nghiên cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Hợp nhất các viện nghiên cứu chuyên ngành vào trường đại học và gắn kết trường đại học và các công ty, xí nghiệp. Các cơ quan nghiên cứu và đào tao được nhận đề tài, chỉ tiêu đào tạo theo chương trình, kế hoạch và kinh phí dựa trên luận chứng khả thi được trách nhiệm của người đứng đầu cơ năm theo định kỳ có những cuộc gặp chung giữa những người có trọng trách và các nhà khoa học đầu ngành của các cơ quan giáo dục-đào tạo và trung tâm khoa học lớn của quốc gia, liên hiệp các hội khoa học Việt Nam…với sự chủ tri của đồng trí chủ tịch, sự tham gia của các thành viên Hội đồng giáo dục -đào tạo và khoa học-công nghệ quốc gia về những ý kiến tư vấn, khuyến nghị của tập thể các nhà khoa học với Đảng và nhà nước về định hướng phát triển giáo dục-đào tạo. Phát triển khoa học –công nghệ, cách tuyển chon và giao chương trình đề tài, giới thiệu những nhà khoa học tài năng để viết giáo khoa, giáo trình, làm chủ nhiệm chương trình, đề tài và tham gia các hội đồng xét duyệt, thẩm định nghiệm thu các chương trình, đề tài khoa học cấp Nhà hiệp các hội khoa học Việt Nam cần thường xuyên và phát huy trí tuệ của các nhà khoa học, dân chủ thảo luận để đưa ra được những ý kiến tư vấn, những khuyến nghị xác thực có giá trị với Đảng, Nhà nước và động viên tập hợp lực lượng các hội viên tiến quân mạnh mẽ vào các lĩnh vực khoa học và công nghệ mà đất nước đang mong chờ để sớm thoát khỏi tình trạng nghèo và kém phát Vai trò tri thức đối với văn hóa-giáo dụcTri thức cũng có vai trò rất lớn đến văn hóa -giáo dục của một quốc gia. Nó giúp con người có được khả năng tiếp cận, lĩnh hội những kiến thức, ý thức của con người được nâng cao. Và do đó nền văn hóa ngày càng lành mạnh. Có những hiểu biết về tầm quan trọng của giáo dục. Từ đó xây dựng đất nước ngày càng lớn mạnh, phồn vinh.
Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ Nội dung Text Tìm hiểu về xã hội tri thức Phần 1 NGUYỄN VẢN DÂN Diện mạo và triển vọng CỦẤ XÃ HỘI TRI THỨC NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUốC GIA - sự THẬT Hà Nội - 2015 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Khoảng vài thập niên gần đây, những tác động mạnh mẽ của các tiến bộ khoa học, công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông đã làm cho thế giới chuyển biến tói một xã hội và nền kinh tế mà ở đó thông tin và tri thức được xem là nguồn lực chủ yếu. Điều này tác động mạnh mẽ đến tất cả các nước, nhất là các nưốc đang phát triển. Chúng ta ngày càng nhận thấy rằng xã hội tri thức có một tầm ý nghĩa rất quan trọng đôl với sự phát triển của loài người, nhưng để tiến tới xây dựng một xã hội tri thức, loài người đang phải vượt qua nhiều thách thức và trở ngại, trong đó có sự cách biệt sô", tình trạng bất bình đẳng trong việc tiếp cận giáo dục, sự mâu thuẫn giữa quyền sở hữu trí tuệ vối quyền được chia sẻ tri thức của mọi người dân,... Vối mong muôn giúp bạn đọc cũng như các nhà nghiên cứu hiểu rõ hơn thế nào là một xã hội tri thức theo quan niệm mối nhất của quốc tế và làm thế nào để có thể xây dựng được một xã hội tri thức bền vững, Nhà xuất bản Chính trị quôc gia - Sự thật xuất bản cuôn sách D iện m ạ o và triển v ọ n g củ a xã h ộ i tri th ứ c của Nguyễn Văn Dân cuô'n sách đã được xuất bản lần đầu tại Nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 2008. Cuồn sách sẽ là tài liệu tham khảo rất có giá trị cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu về xã hội tri thức - một lĩnh vực đang từng bước khẳng định vai trò và vị trí trong đòi sông hiện đại ngày nay. Nội dung cuô'n sách hệ thông hóa lại các quan điểm về đặc trưng của xã hội tri thức, làm rõ bản chất và phân tích vai trò của xã hội tri thức đôì với sự phát triển bền vững, qua đó trình bày một số suy nghĩ về con đường phát triển xã hội tri thức ở Việt Nam. Những vấn để do tác giả luận giải khá rộng và vẫn còn có những ý kiến đánh giá khác nhau trong giối nghiên cứu trong và ngoài nước. Đổ bạn đọc thuận tiện khi nghiên cứu, tham khảo, chúng tôi cô" gắng giữ nguyên chính kiến và các luận chứng của tác giả và coi đây là quan điểm riêng. Rất mong bạn đọc góp ý kiến để lần xuất bản sau nội dung cuô"n sách hoàn thiện hớn. Tháng 3 năm 2015 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - sự THẬT Mở đầu XÃ HỘI THÔNG TIN HAY XÃ HỘI TRI THỨC? Ngày nay, trên sách báo trong và ngoài nước đang xuất hiện hai khái niệm khi thì đưỢc dùng để chỉ một kiểu xã hội hiện đại, khi thì được dùng để chỉ hai giai đoạn phát triển của nó; “xã hội thông tin” và “xã hội tri thức”. Thực tế, hai khái niệm này đang được hiểu và cần phải được hiểu như thế nào? Đây là hai khái niệm xuâ't hiện từ khoảng thập niên 1960, khi công nghệ thông tin đã làm một cuộc cách mạng để tạo ra một kiểu xã hội mới, xã hội hậu công nghiệp. Từ đó người ta bắt đầu nói đến một thời đại thông tin. Bên cạnh hai thuật ngữ “xã hội thông tin” và “xã hội tri thức”, người ta còn nói đến “xã hội số” hay “xã hội kỹ thuật số”i “xã hội mạng”, “xã hội học tập” hay “xã hội học hành”, có người còn dịch là “xã hội học hỏi”, “xã hội dựa trên tri thức”... Nhìn chung, các thuật ngữ này đều xoay quanh hai đặc trưng chủ chốt là “thông tin” và “tri thức”. Sự thực là thuật ngữ “xã hội tri thức” xuất hiện sau thuật ngữ “xã hội thông tin” và “xã hội học tập” tiếng Anh “knọwledge society”, “information society”, “learning society”. Theo nhiều nguồn tài liệu thì người đầu tiên đưa ra thuật ngữ “xã hội tri thức” là nhà khoa học người Mỹ Peter Drucker trong công trình Thời đại gián đoạn. Dường hướng cho xã hội đang thay đổi của chúng ta The Age o f Discontinuity. Guidelines to our Changing Society, xuất bản tại New York Harper & Row năm 1969. Từ đó, xã hội tri thức tiếp tục được bàn luận song song với xã hội thông tin và xã hội học tập, và đến thập niên 1990 thì nó được khẳng định. Đặc biệt là sang đến đầu thế kỷ XXI, vấn đề về xã hội tri thức đã thu hút được sự hỢp tác nghiên cứu của các nhà khoa học và sự quan tâm của các tô chức quốc tế, đặc biệt là các tổ chức của Liên hỢp quốc. Từ ngày 10 đến ngày 12-12-2003, theo kế hoạch của Đại hội đồng Liên hỢp quốc, Liên hiệp Viễn thông Quốc tế của Liên hỢp quốc ITU đã tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh thế giới vể Xã hội Thông tin giai đoạn I tại Giơnevơ, Thuỵ Sĩ. Và để phục vụ cho công tác trù bị của Hội nghị này, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hỢp quốc UNESCO đã cho công bố hai văn kiện quan trọng - Thông cáo của Hội nghị bàn tròn cấp bộ trưởng “Hướng tối các xã hội tri thức” “Tovvards Knowledge Societies”, và - Bản báo cáo Từ xã hội thông tin đến xã hội tri thức From the Inỉorm ation Society to KnowIedge Societies. Trong bản thông cáo “Hướng tối các xã hội tri thức” của Hội nghị bàn tròn cấp bộ trưởng của Đại hội UNESCO, UNESCO đã nhấn mạnh “...việc sử dụng các công nghệ thông tin - truyền thông để xây dựng xã hội tri thức cần phải hướng tối sự phát triển con người dựa trên các quyền con người”*. Rồi từ ngày 16 đến ngày 18-11-2005, Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Xã hội Thông tin giai đoạn II đưỢc tổ chức tại Tuynít, thủ đô của Tuynidi. Tại Hội nghị lần này, cộng đồng quốc tế đã nỗ lực muốn đạt được một quan điểm chung về một bộ khung thích hỢp cho một xã hội dành cho tất cả mọi người. Nhân dịp này, các học giả Đức đã nhân danh xã hội công dân Đức soạn thảo một bản Hiến chương vê quyền công dân vì m ột xã hội tri thức bền vững trình lên Hội nghị, trong đó các nhà khoa học Đức nhấn mạnh “Một xã hội trong đó chế độ sở hữu trí tuệ đang biến tri thức thành một nguồn tài nguyên khan hiếm thì không phải là một xã hội bển vững”^. Như vậy, ngay khi diễn ra Hội nghị Thượng đỉnh Thế giối về Xã hội Thông tin, thì các nhà khoa học đã khuyến cáo rằng, để khắc phục những nhược điểm của xã hội thông tin, chúng ta phải chuyển sang xã hội tri thức, và ngay bây giò, loài người phải chú trọng đến việc xây dựng xã hội tri thức, nền tảng của xã hội bền vững. Và cũng ngay trong năm 2005, UNESCO đã xuất bản một Báo cáo Thế giối mang tên Hướng tới cấc xã hội tri thức, dài 226 trang, trong đó các tác giả nhấn mạnh yêu cầu phải chuyển từ xã hội thông tin sang xã hội tri thức, với một nguyên tắc 1. Trích theo UNESCO; Towards Knowledge Societies UNESCO World Report 2005 “Hướng tối các xã hội tri thức- Báo cáo thê giới của UNESCO 2005”, UNESCO Publishing, Paris, 2005, p. 28. 2. Charter of civil rigbts for a sustainable knovỉỉedge society A contribution of German civil society for the world summit on the iníormation society Geneva 2003 - 'hinis 2005, cơ bản là tri thức cần p h ải được chia sẻ cho mọi người dẫn trên t h ế giới. Theo UNESCO, xã hội tri thức có một tính ưu việt so vối xã hội thông tin là Trong khi xã hội thông tin vẫn dựa trên nguyên tắc trao đổi mua bán của nền kinh tê thị trường thông tin đưỢc coi là hàng hoá; thì xã hội tri thức dựa trên một nguyên tắc đạo đức học mới mang tính dân chủ, dân quyền và nhân quyền tri thức cần phải được coi là tài sản chung của nhân loại, mọi người dân đều có quyền được tiếp cận. Điều này sẽ biến xã hội tri thức thành phương tiện để loài người xây dựng một xã hội bển vững và phát triển con người bền vững. Đây là xu hướng phù hỢp với trào lưu chung hiện nay của toàn cầu hoá trào lưu hướng tới dân chủ, dần quyền và nhân quyền. Đe tiến tới xây dựng một xã hội tri thức, loài người đang phải vượt qua rất nhiều thách thức và trở ngại đó là sự cách biệt sô", là tình trạng bất bình đẳng trong việc tiếp cận giáo dục, dẫn đến tình trạng cách biệt và loại trừ về mặt tri thức giữa miền Bắc và miền Nam, giữa các nước phát triển với các nưốc đang phát triển và trong lòng mỗi một xã hội. Xã hội tri thức cũng sẽ phải giải quyết vấn đề về sự mâu thuẫn giữa quyền sở hữu trí tuệ - một quyển lợi trọng tâm của xã hội thông tin - với quyền được chia sẻ tri thức của mọi người dân. Chúng ta tưởng rằng với quá trình toàn cầu hoá, cùng với các thể chế mang tính áp đặt phổ biến của nó như Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, quyền sở hữu trí tuệ sẽ ngày càng trở thành tiêu chuẩn đôl xử giữa các xã hội. Thế nhưng cùng với sự xuất hiện của xã hội tri thức, quyền sở hữu trí tuệ sẽ được nhìn nhận dưói một ánh sáng 10 khác mà dựa vào đó loài người sẽ phải giải quyết vấn đề này theo một hướng phát triển bền vững hơn. Rõ ràng, xã hội tri thức đang mở ra cho chúng ta những đường hướng mối chưa từng có cho sự p h át triển con người theo quan điểm nhân đạo. * Trong những năm gần đây, Việt Nam cũng đã nói nhiều đến chủ đề xã hội thông tin, nhưng chủ đề xã hội tri thức được đề cập rất ít. Có một sô" bài tạp chí lẻ tẻ đã để cập đến xã hội tri thức, nhưng chưa có cuô"n sách nào bàn chuyên về xã hội tri thức. Mặt khác, các tác giả trong nước chủ yếu vẫn nhìn xã hội tri thức từ góc độ kinh tế. Trong gần 10 năm trở lại đây, một loạt cuôh sách viết về kinh tế tri thức và xã hội thông tin đã đưỢc công bố. Chúng tôi xin đơn cử một số cuô"n sách như; Nền kinh t ế tri thức Nhận thức và hành động. Kinh nghiệm của các nước p h át triển và đang phát triển, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2000, 216 trang; Kinh t ế tri thúc - vấn đ ề và giải pháp Kinh nghiệm của các nước đang p h á t triển Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Nhà xuất bản Thông kê, Hà Nội, 2001, 239 trang; Kinh t ế tri thức - Những k h á i niệm và vấn đ ề cơ bản Đặng Mộng Lân, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2001, 142 trang; Kinh t ế tri thức - xu t h ế mới của xã hội t h ế k ỷ XXI Sách tham khảo, Ngô Quý Tùng, Nhà xuất bản Chính trị quốíc gia, Hà Nội, 2000, 400 trang; P hát triển kinh t ế tri thức Rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá Đặng Hữu Chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 11 2001, 387 trang; Quản lý công nghệ trong nền kinh tê tri thức Đặng Nguyên, Thu Hà, Nhà xuất bản Hà Nội, Hà Nội, 2002, 318 trang; Nhà nước với p h á t triển kinh t ế tri thức trong bối cảnh toàn cầu hoá Nguyễn Thị Luyến Chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005, 329 trang; Ai sở hữu kinh t ế tri thức? Tiếng nói bè bạn, Sách tham khảo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, 187 trang; Tri thức, thông tin và p h á t triển Viện Thông tin Khoa học xã hội, Bùi Biên Hoà Chủ biên, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, 370 trang; Hội thảo khoa học “Kinh t ế tri thúc và những vấn đ ề đặt ra đôĩ vói Việt N anỉ’ Ban Khoa giáo Trung ương - Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường - Bộ Ngoại giao, Hà Nội, 2000, 259 trang; Những vấn đ ề về kinh t ế tri thức Tư liệu chuyên để, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000, 4 tập; Thời đại kinh t ế tri thức Sách tham khảo, Tần Ngôn Trước - Trần Đức Cung - Nguyễn Hữu Đức dịch, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, 464 trang; Những thách thức của sự p h á t triển trong xã hội thông tin Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002, 208 trang; Bước chuyển sang nền kinh t ế tri thức ở m ột s ố nước trên t h ế giới hiện nay Lưu Ngọc Trịnh Chủ biên, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2002, 444 trang; Kinh t ế tri thức ở Việt Nam Quan điểm và giải pháp p h á t triển Vũ Trọng Lâm Chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2004, 284 trang; Môi trường xã hội nền kinh t ế tri thức Những nguyên lý cơ bẩn Sách chuyên khảo chuyên ngành Xã hội học tri thức, Trần Cao Sơn, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 12 Hà Nội, 2004, 219 trang; Kinh t ế tri thức với công cuộc p h á t triển ỏ Việt Nam Vương Liêm, Nhà xuất bản Thanh niên, Thành phốHồ Chí Minh, 2004, 291 trang; Kinh t ế tri thức - Thời cơ và thách thức đối với sự p h át triển của Việt Nam Đặng Hữu, Nhà xuất bản Chính trị quốíc gia, Hà Nội, 2004, 318 trang. Như vậy, mối quan tâm chính của các nhà nghiên cứu và quản lý của Việt Nam mối chỉ tập trung vào kinh t ế tri thức và xã hội thông tin. Đành rằng kinh tế tri thức là một trong những cột trụ của xã hội tri thức trong tương lai, nhưng, theo quan điểm mối đây của nhiều học giả và tổ chức quốc tế trên thế giới, thì kinh tế tri thức không phải là tất cả xã hội tri thức. Nói một cách khác, nhiều tác giả trong và ngoài nước ta vẫn thiên về xu hưống đồng nhất xã hội tri thức với xã hội thông tin và với kinh t ế tri thức, vẫn thiên về việc chú trọng đến vai trò của công nghệ thông tin mà ít có ý thức về các khía cạnh xã hội, chính trị, giáo dục và đạo đức của “xã hội tri thức”’, trong khi đó, những khía cạnh này cũng là những khía cạnh chủ chốt của xã hội tri thức. Có thể nói, những bài báo viết về xã hội tri thức của nưốc ta chưa cập nhật được quan niệm mới nhất của quốc t ế về xã hội tri thức. Vì thế, chúng tôi thực hiện công trình này vối mục đích Thông tin khách quan về quan điểm của các nhà khoa học 1. Về vấn đề này, có thể tham khảo bài viết “Xã hội tri thúc và vài suy n gh ĩ v ề con dường hội nhập" của Diễn đàn Công nghệ thông tin Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, đăng trên ngày 4 -5 -2 0 0 3 . 13 trên thế giới về xã hội tri thức, vể những vấn đề và những lĩnh vực liên quan đến xã hội tri thức trong đó tất nhiên phải có lĩnh vực xã hội thông tin và kinh tê tri thức, là những lĩnh vực vẫn được nhiều người đồng nhất với xã hội tri thức; về những đặc điểm của xã hội tri thức cùng những thách thức và triển vọng đốì với sự phát triển thế giới nói chung và của xã hội Việt Nam nói riêng; góp phần tạo lập cơ sở lý luận cho việc tiến tói xây dựng một xã hội tri thức ở Việt Nam, đưa nưốc ta hội nhập với xu thế phát triển của thế giối. 14 Ch ương I TỪ XÃ HỘI THÔNG TIN ĐEN XÃ HỘI T R I THỨC 1. Sự chổng chéo giữa hai khái niệm Trước hết chúng tôi phải nói rõ thêm rằng, thuật ngữ “xã hội thông tin” hay “xã hội tri thức” không nằm trong hệ thôhg khái niệm thuộc hệ thông phát triển của hình thái ý thức xã hội theo lý thuyết về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Cũng giống như mọi sự vật, xã hội có thể được tiếp cận từ nhiều góc độ. Từ mỗi góc độ ta lại có thể phân loại và phân cấp xã hội theo một hệ thống khác. Đứng từ góc độ của lý thuyết quan hệ sản xuất, chúng ta có các hình thái ý thức xã hội như xã hội cộng sản nguyên thuỷ, xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản, xã hội xã hội chủ nghĩa, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đứng từ góc độ tôn giáo người ta có thể nói đến xã hội Cơ Đốc giáo, xã hội Phật giáo, xã hội Nho giáo, xã hội Hồi giáo... Và đứng từ góc độ văn minh, người ta nói đến sự chuyển biến theo dòng lịch sử từ xã hội nông nghiệp lên xã hội công nghiệp, đến xã hội hậu công nghiệp hay xã hội thông tin, và tiếp 15 đến sẽ là xã hội tri thức. Đó là chưa kể đến việc người ta có thể lấy tên gọi của dân tộc để đặt cho xã hội của một quốc gia xã hội Mỹ, xã hội Nga, xã hội Trung Quốc, xã hội Việt Nam... Còn thuật ngữ “xã hội công dân”^ thì không phải là để chỉ một kiểu hình thái xã hội, mà là một thuật ngữ đưỢc dùng để chỉ tập hỢp các cá nhân và tổ chức trong quan hệ phân biệt vối nhà nước. Về' điều này, chúng tôi s ẽ trình bày thêm ỏ chương II. Tuy nhiên, các hệ thống xã hội khác nhau của các góc độ tiếp cận khác nhau không trùng khớp hoặc loại trừ nhau hay phải có quan hệ với nhau. Nghĩa là xã hội nông nghiệp không nhất thiết trùng khớp chỉ với xã hội phong kiến, xã hội thông tin hay xã hội tri thức không nhất thiết phải trùng khớp với xã'hội tư bản hay với xã hội cộng sản. Không nhất thiết phải quan niệm rằng khi ta nói đến các kiểu xã hội theo góc độ văn minh thì ta phải loại trừ các kiểu xã hội theo góc độ quan hệ sản xuất. Cũng không nhất thiết khi nói đến xã hội tri thức, chẳng hạn, thì phải xét xem nó có liên quan gì đến các hình thái xã hội, hoặc nó có tương ứng với một hình thái xã hội nào đó trong hệ thống các hình thái xã hội xét theo góc độ quan hệ sản xuất hay không. Nghĩa là ta phải quan niệm rằng các góc độ tiếp cận đa dạng chỉ có ý nghĩa bổ sung góc nhìn cho nhau mà thôi. * Nói đến xã hội thông tin, người ta thường hình dung đó là một xã hội dựa trên những ứng dụng phổ biến của các 1. Một thuật ngư có xuất xứ từ tiếng nưóc ngoài, còn được dịch là “xă hội dân sự”. 16 công nghệ thông tin và truyền thông mới, tức là công nghệ máy tính điện tử và kỹ thuật số, mà đỉnh cao là công nghệ internet. Với các công nghệ thông tin và truyền thông mới này, nhiều người đã nói đến một cuộc cách mạng thông tin lần thứ năm do thời đại thông tin đem lại từ giữa thế kỷ XX, sau bốn cuộc cách mạng đã diễn ra trong lịch sử nhân loại với sự xuâ't hiện lần lượt của tiếng nói, chữ viết, kỹ thuật in ấn, các thiết bị truyền thông bằng điện và điện tửh Song, cũng có nhiều người dưới sự tập hỢp của UNESCO lại gọi cuộc cách mạng của những công nghệ mối ngày nay là cuộc cách m ạng công nghiệp lần thứ ba, m ột cuộc cách m ạng sô' tạo ra những vật vô hỉnh và m ạng liên k ết toàn cầu, sau cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất vối sự thay thê của máy móc cho lao động chân tay, và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai với việc phát triển công nghiệp dịch vụ^. Có thể nói, dù được xác định bằng tên gọi là cuộc cách mạng thông tin lần thứ năm hay cách mạng công nghiệp lần thứ ba, thì trong suốt nửa thế kỷ qua, các công nghệ thông tin và truyền thông mới vẫn đang phát huy sức mạnh của nó, và ngày nay càng phát huy mạnh mẽ hơn bao giò hết. Đứng từ góc độ khoa học và công nghệ, xã hội thông tin được coi là một kiểu xã hội có các lĩnh vực hoạt động dựa 1. Xem Bùi Biên Hoà; “Toàn cầu hoá kinh tê dưới tác động của cuộc cách mạng thông tin lần thứ năm”, in trong N hững vấn đ ề của toàn cẩu hoá kinh tê’Nguyễn Văn Dân chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001, tr. 124 -158; Phạm Thị Ngọc Trầm “Cách mạng thông tin - công nghệ và nền văn minh”, ngày 12-12-2005. 2. Xem UNESCO; Towards Knowledge Societies, Tlđd, tr. 5, 18, 24, 27, 45. 17 ! trên các công nghệ thông tin và truyền thông. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, công nghệ thông tin đang đóng một vai trò quan trọng, tạo ra những sản phẩm có hàm lượng thông tin cao. Nền kinh tế đó được gọi là nền kinh tế mới, còn đưỢc cụ thể hoá bằng những tên gọi như kinh tê mạng, kinh tế sô", kinh tế thông tin, hay kinh tê dựa trên tri thức, và cuổì cùng được gọi ngắn gọn là kinh tế tri thức. Một sô" ngành công nghệ cao hiện nay đang được coi là những ngành mũi nhọn của nền kinh tê mới này. Chính vì vậy, trong quan niệm của nhiều người, xã hội thông tin cũng đồng nghĩa với xã hội tri thức, và xã hội tri thức lại đồng nghĩa với kinh tế tri thức. Việc đồng nhất khái niệm xã hội thông tin với xã hội tri thức không chỉ diễn ra ở Việt Nam, mà ngay cả trên thê" giới, hai khái niệm này vẫn được nhiều người dùng lẫn cho nhau. Điều này xuất phát từ một thực tê" là bản thân “thông tin” và “tri thức” là hai khái niệm khó có thể phân biệt rạch ròi. Trong tập 1 của cuô"n sách The Iníorm ation Age Economy, Society and Culture Thời đại thông tin Kinh tế, xã hội và văn hoá, xuất bản năm 1996, Manuel Castells đã định nghĩa “thông tin” là “dữ liệu được tổ chức và đưỢc truyền thông”, ông cũng nhắc lại định nghĩa đơn giản nhưng tương đô"i mang tính mở của Daniel Bell thông tin là “một tập hỢp những lời tuyên bô" về các sự việc hoặc ý tưởng, đưa ra một sự phán xét có lý hoặc một kết quả thực nghiệm, được truyền đi cho những người khác thông qua một phương tiện truyền thông nào đó theo một hình thức hệ thông nhâ"t định”. Như vậy, theo Castells, thông tin và 18 tri thức là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, tuy nhiên chúng cùng chia sẻ những đặc điểm chung, bao gồm việc tổ chức và truyền thông dữ liệu. Xã hội tri thức nhấn mạnh nhiều hơn đến khả năng sản sinh và tích hỢp tri thức mói, và đến khả năng tiếp cận thông tin, tiếp cận tri thức, dữ liệu và một tập hỢp rộng lớn các bí quyết nghề nghiệph Trong cuốn sách Kinh t ế tri thức Những k h á i niệm và vấn đê cơ bản, xuất bản năm 2001, trên cơ sở tổng hỢp các quan điểm của các học giả nưốc ngoài, nhà nghiên cứu Đặng Mộng Lân cho biết rằng thông tin theo nghĩa rộng bao gồm dữ liệu, còn thông tin theo nghĩa hẹp là kiến thức hay tri thức^. Và theo tác giả, tất cả mọi dữ liệu hay kiến thức tri thức đều là thông tin theo nghĩa rộng. Theo ông “Thông tin là dữ liệu đã đưỢc chế biến tức được xử lý’ - NVD tối mức độ nào đó, kiến thức tri thức - NVD là thông tin được chế biến “xử l ý ’ ở mức cao hơn”'*. Tuy nhiên, Đặng Mộng Lân lại trích quan điểm của p. F. Drucker cho rằng trong nền kinh tế tri thức, một phần quan trọng tri thức được “dịch” thành thông tin tức tri thức đưỢc mã hoá để có thể dễ dàng mua bán'*. Rõ ràng là “thông tin” và “tri thức” đang còn được dùng lẫn cho nhau. Đó là vì, như nhiều người đã nói “Vấn đề bản chất của thông tin, như ta đã biết, là một trong 1. Castells M. The Iníormation Age Economy, Society and Culture, Vol. 1, The Rise of the Netvvork Society, Malden, Mass./Oxíord, Blackvvell, 1996, p. 38, note 28. Trích theo UNESCO Tovvards Knovvledge Societies, Tlđd, chú thích 4 của phần Nhập đề, tr. 211.. Hai tập sau của cuô'n sách này là; Vol. 2, The Power oíldentity, 1997; Vol. 3, End of Millenium, 1998. 2, 3, 4. Đặng Mộng Lân Kinh t ế tri thức N hũng khái niệm và vấn dê cơ bản, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2001, tr. 21, 28, 19. 19 những vấn đề phức tạp nhất và có nhiều tranh cãi nhất trong khoa học hiện đại” A. Ursul và E. Semeniuk, 1978; rằng; “Vấn đề chính của chúng ta là chúng ta không biết thông tin là cái gì”' H. Bosma, 1983. Ngay cả khái niệm tri thức cũng có nhiều phát biểu khác về nó, trong đó có cả những phát biểu mang tính cảm nhận chủ quan. Chẳng hạn như Ngân hàng Thế giới đã đưa ra một định nghĩa rất văn vẻ “Tri thức giống như ánh sáng. Không trọng lượng và vô hình, nó dễ dàng đi khắp thế giới, soi sáng cuộc sông của người dân ở khắp mọi nơi”^1999. Còn Sven Ove Hansson, Giáo sư triết học Viện Công nghệ Hoàng gia Stockholm, thì đưa ra một định nghĩa thiên về tính chủ quan “Trước hết, tri thức là một dạng niềm tin. Điều gì không được người ta tin thì không thể là tri thức. Bởi vậy, nếu tôi tiếp cận được một thông tin xác thực nhưng lại không tin vào nó, thì việc tôi biết đến thông tin đó cũng không làm thành tri thức. Mặt khác những niềm tin không đúng đắn cũng không thể đưỢc coi là tri thức .... Như thế, tri thức có cả yếu tố chủ quan lẫn yếu tố khách quan”^. 1. Đặng Mộng Lân Kinh t ế tri thức N hững khái niệm và vấn đ ề cơ bản, Sđd, tr. 23. 2. Trích theo Hans-Dieter Evers Transition towards a Knovvledge Society; Malaysia and Indonesia Compared” “Quá độ sang một xã hội tri thức; so sánh Malayxia và Inđônêxia”, hdevers/ file; transition tovvards a Knowledge Society- hde 01/07/2002 354 PM, tr. 5. 3. Sven Ove Hansson “Uncertainties in the Knovvledge Society” “Những tình trạng bấp bênh trong xã hội tri thức”, UNESCO, ISSJ, 171/2002, p. 39-46 Đoạn trích ở tr. 39, { 8 pages; { 20 s. o. Hansson đã phân biệt rất rõ dữ liệu với thông tin và với tri thức, ông lấy ví dụ .nếu ông có một cuốn sách vê thói quen đi lại của người dân Stockholm, thì điều đó có nghĩa là ông được tiếp cận thông tin về chủ đê này chứ chưa phải là tri thức. Nếu ông đọc cuốn sách, thì thông tin có thể sẽ dẫn đến tri thức. Tuy nhiên, sự chuyển biến từ thông tin thành tri thức như vậy chỉ có thể xảy ra nếu ông hiểu đưỢc thông tin để nó có thể đưỢc hấp thụ vào hệ thông niềm tin của ông một cách đúng đắn. Nếu ông học thuộc lòng văn bản cuốn sách mà không hiểu, thì ông có thông tin chứ không phải có tri thức về chủ đề đó. Còn dữ liệu thì khác biệt với thông tin ở chỗ là nó không có đưỢc một hình thức thích hỢp cho sự hấp thụ. Nếu thay vì cuốn sách, ông có câu hỏi mà dựa vào đó cuốn sách đã đưỢc viết ra, thì tức là ông có dữ liệu chứ không phải thông tin. Nói tóm lại, dữ liệu phải được hấp thụ bằng con đường nhận thức để có đủ điều kiện là thông tin, và phải đưỢc hấp thụ bằng con đường nhận thức để có đủ điều kiện là tri thức*. Trong cuô"n sách Inỉorm ation and Know ledge Society Xã hội thông tin - tri thứcY, xuất bản năm 2002, hai tác giả là Suliman Al-Hawamdeh PGS. TS. Ban nghiên cứu 1. Sven Ove Hansson “Uncertainties in the Knovvledge Society”, Tlđd, tr. 39-40. 2. Việc diễn đạt cụm từ này sang tiếng Việt, nếu không chú ý sẽ rất dễ gây hiểu lầm. Nếu ta dịch là “Xã hội thông tin và tri thức”, thì có thể khiến người đọc hiểu đây là môi quan hệ giữa một vế là “xã hội thông tin” vói mệt vê là “tri thức”. Nhưng thực tê là tác giả bàn đến một kiểu xã hội mang bản tính của “thông tin và tri thức”, ở đây, “thông tin và tri thức” là một tính từ kép bô nghĩa cho danh từ “xã hội”, chính vì vậy mà chúng tôi buộc phải thay chữ “và” bằng dấu gạch nốì để khỏi nhầm lẫn. 21 r thông tin thuộc Đại học Công nghệ Nam Dương Nanyang, Xingapo và Thomas L. Hart GS. TS. của Trường Nghiên cứu Thông tin thuộc Đại học Quốc gia Plorida, Hoa Kỳ, đã phân biệt tri thức với thông tin như sau “Chúng tôi định nghĩa tri thức là thông tin tích cực và năng động đó là thông tin được đọc hoặc được thông báo, đưỢc hấp thụ và đưỢc sử dụng. Định nghĩa này sẽ giúp ta phân biệt giữa các trung tâm thông tin thư viện, thư viện số", thư mục, cổng thông tin, với các tô chức tri thức. Trong khi các trung tâm và các cổng thông tin đưỢc dùng để nắm bắt, tổ chức và quản lý thông tin, thì các tổ chức và các cổng tri thức vượt qua khỏi việc quản lý thông tin để quản lý tri thức. Điều này đòi hỏi phải sử dụng và thao tác thông tin để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có giá trị gia tăng. Việc biến thông tin từ dạng tĩnh sang dạng động cũng có thể dẫn đến sự đổi mới và sáng tạo. Thông thường, tri thức tồn tại trong sách vở và tư liệu dưới dạng thông tin tĩnh sẽ không có ích gì nếu thông tin đó không đưỢc đọc và đưỢc lĩnh hội”k ĐỐI với khái niệm “tri thức”, nhiều người đã phân ra hai loại tri thức tri thức hiện và tri thức ẩn. Ví dụ, hai tác giả Al-Hawamdeh và Thomas L. Hart quan niệm về hai loại tri thức này như sau • Tri thức hiện, được xác định như là thông tin và kỹ năng mà chúng có thể đưỢc thông báo và mô tả dưối dạng tư liệu một cách dễ dàng ví dụ như dữ liệu số. 1. Suliman Al-Hawamdeh và Thomas L. Hart Inỉormation and Knowledge Societỵ Xã hội thông tin - tri thức, McGraw-Hill Education, Singapore, 2002, p. 3. 22 • Tri thức ấn, được xác định như là tri thức không mã hoá mà con người đem theo trong mình và sử dụng trong công việc của mình nhưng không đưỢc mô tả trong bất cứ một tư liệu nào’. Năm 2005, trong bản báo cáo Tìm hiểu xã hội tri thức, Vụ các Vấn đê Kinh tế và Xã hội DESA thuộc Ban Thư ký của Liên hợp quốc cũng phân ra hai loại tri thức như trên và họ đồng nhất thông tin với tri thức hiện để phân biệt nó vói tri thức ẩn. Họ phát biểu; “Tri thức hiện thông tin ám chỉ cái niềm tin được xác minh là đúng’ Platon, đưỢc mã hoá bằng ngôn ngữ hình thức và mang tính hệ thống. Nó có thể được kết hỢp, lưu trữ, truy cập và truyền tải thông qua các phương tiện khác nhau, bao gồm cả các công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại. Tri thức ẩn lè một sự pha trộn linh hoạt kinh nghiệm trong khuôn khổ với các giá trị, vối thông tin tình huống và sự thấu hiểu chuyên môn để cung cấp một khuôn khô đánh giá và hỢp nhất các kinh nghiệm và thông tin mối. Tri thức ẩn là thông tin kết hỢp với kinh nghiệm, tình huống, sự lý giải và sự phán đoán”^. Sau đó, cũng giông như Nonaka, Takeuchi và Konno, DESA ví tri thức như là một tảng băng trôi phần nổi của 1. s. Al-Hawamdeh và Th. L. Hart Information and Knowledge Society, Sđd, tr. 94-96. 2. DESA Department of Economic and Social Affairs of the United Nations S ecretariat, U nderstanding KnowIedge Societies Tìm hiểu xã hội tri thức, UN, New York, May 2005 179 p., tr. 19, 23
Khái niệm Tri giác xã hộiTri giác xã hội là sự cảm nhận, hiểu biết và sự đánh giá của chủ thể tri giác về các đối tượng xã hội các cá nhân, nhóm người, bản thân mình, hoặc các hiện tượng xảy ra có sự tham gia của con giác xã hội đó là hiện tượng nhận biết xã hội. Nó phụ thuộc vào đối tượng mà chúng ta đang tri giác, đặc biệt là phụ thuộc vào mục đích, kinh nghiệm, nguyện vọng của chúng ta. Nó còn phụ thuộc vào hoàn cảnh, bối cảnh của chúng ta. Thực chất của tri giác xã hội là tri giác những người và kiểu người trong xã giác xã hội có nghĩa là thông qua các biểu hiện và hành vi bên ngoài kết hợp với một vài đặc điểm nhân cách của người đó do chúng ta cảm nhận được để hiểu được mục đích, phương hướng hành động hoặc để hiểu được người giác xã hội khác với tri giác vật thể ở chỗ đối tượng tri giác là một thực thể tích cực, có tình cảm và thái độ riêng của trúc của bất kỳ một quá trình tri giác xã hội nào cũng bao gồm chủ thể tri giác, đối tượng tri giác, quá trình tri giác và kết quả tri giác, sự ảnh hưởng của tri giác xã hội tới sự điều chỉnh hành vi và hoạt động của cá nhân, của các nhóm xã cơ chế tri giác xã hộiCác công trình nghiên cứu đã cố gắng chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng của quá trình tri giác xã hội. Đó là ấn tượng ban đầu, quy gán xã hội, định kiến xã Ấn tượng ban đầuẤn tượng ban đầu là hình ảnh tổng thể mà chúng ta có được về một người khác hoặc về nhóm xã hội dựa trên một sự nhìn nhận, đánh giá một cách chung chung thông qua những biểu hiện về diện mạo, lời nói, cử chỉ, tác phong, ánh mắt,… Sau lần tiếp xúc ban đầu ta sẽ có một ấn tượng nhất định về đối tượng của thường sau lần gặp gỡ đầu tiên tri giác, nhận thức, về mặt vô thức, trong đầu chúng ta hiểu về người đó liệu có chơi được hay không? người này có thích mình không?… Chúng ta quy lại một nhân cách chung, do đó nó chi phối rất nhiều trong quá trình tri giác lần tượng ban đầu được hình thành trên cơ sởa. Đặc điểm trung tâmTrong quá trình ứng xử xã hội, giao tiếp thông thường ở mỗi cá nhân có nổi lên một đặc điểm nào đó và chúng ta đã lấy nó để suy luận về tâm lý học Mỹ, Asch Solomon, nghiên cứu về ấn tượng ban đầu đã tiến hành thí nghiệm như sauCho hai nhóm sinh viên hai bảng ghi các đặc điểm tính cách. Nội dung của hai bảng như nhau, chỉ khác một điểm “tính nồng nhiệt” của người A thay thế bằng “tính lạnh lùng” của người A — Người BThông minh — Thông minhKhéo léo — Khéo léoCần cù — Cần cùNồng nhiệt — Lạnh lùngKiên quyết — Kiên quyếtThực tế — Thực tếThận trọng — Thận trọngÔng yêu cầu hai nhóm sinh viên đưa ra nhận định của mình về người có những đặc điểm trong bảng. Các sinh viên nhận xét người A là một người tin tưởng vào những điều đúng đắn, muốn mọi người hiểu quan điểm của mình, chân thành khi tranh luận và mong ý kiến, quan điểm đó được thừa sinh viên thứ hai cho rằng người B là một kẻ lừa dối, thấy mình thành công, thông minh đã tưởng là khác người, đó là người tính toán, lãnh thí nghiệm này ông kết luận chính cặp đặc điểm trung tâm “nồng nhiệt – lạnh lùng” là yếu tố chính trong quá trình hình thành ấn tượng. Nếu thay đổi cặp đặc điểm này thì ấn tượng chung cũng bị ảnh hưởng. Các cặp đặc điểm trung tâm không chỉ đem lại những ấn tượng khác nhau mà còn gợi thêm những cảm tưởng khác nhau như tính nồng nhiệt đã làm 90% sinh viên đánh giá người A là hào hiệp, 75% sinh viên đánh giá là hài hước. Còn tính “lạnh lùng” chỉ có 10% sinh viên nhận định người B là hào hiệp hoặc hài tượng ban đầu được hình thành trên cơ sở một vài đặc điểm biểu hiện ra ngoài mang tính nổi bật trong một hoàn cảnh nào đó. Đặc điểm ấy thường gọi là đặc điểm trung tâm. Nó quyết định, khống chế cách thức và chiều hướng suy nghĩ cảm nhận của người tri giác. Vì thế, không phải lúc nào chúng ta tri giác cũng Sơ đồ nhân cách tiềm cuộc sống, do tiếp xúc ứng xử, chúng ta thường có một cách thức hay gán ghép các yếu tố với nhau thành một nhân mỗi con người đều có sẵn một sơ đồ liên hệ giữa các tính cách của con người với nhau. Chúng ta hay gán ghép những nét tính cách, phẩm chất giống nhau lại. Khi tiếp xúc với các cá nhân trong xã hội, thì mối liên hệ nét tính cách tốt hay xấu nó được hoạt hoá và chúng ta dùng để đánh giá người khác. Sự hoạt hoá – liên kết giữa các nét tính cách đã ảnh hưởng đến việc chúng ta đánh giá người khác dựa vào kinh nghiệm của chúng ta, nghĩa là chúng ta đặt con người bằng phạm trù sơ lược, bằng kinh niệm sơ đồ nhân cách tiềm ẩn nhằm mô tả một biểu tượng tinh thần sơ lược có chức năng hiểu biết hiện thực bằng cách giản lược những phức tạp của đối tượng, thực tế, dự đoán được các phản ứng hành động của đối tác, định ra cái chuẩn có khả năng nhờ đó có thể kiểm tra được người khác và hành động của đồ nhân cách ngầm ẩn nó phụ thuộc vào+ Kinh nghiệm những ý niệm, tri thức của chúng ta có về người khác, chúng ta sẽ có phản ứng tích cực hay tiêu cực về các nhóm xã hội khác.+ Động cơ lý do hành động, đó là hoạt động của chúng ta hướng vào để đạt được mong muốn, ý đồ của chúng ta.+ Hoàn cảnh, bối cảnh cụ thể. Nó quy định cách thức chúng ta nhìn nhận người khác, quy định chuẩn mực của sự đánh Thông tin đầu tiênLà những tri thức, cảm xúc của con người, trật tự của những thông tin quy định cách chúng ta đánh giá người tự thông tin rất quan trọng trong việc quan sát người khác, những thông tin đến sớm nhất, đầu tiên bao giờ cũng tác động gây cho người ta có sự tri giác gây ấn tượng lớn. Nó tạo nên sự áp đặt, nó chi phối làm sai lệch cách chúng ta cảm nhận người tin ban đầu có tính quyết định khi tri giác người lạ, còn đối với người quen thì thông tin cuối cùng lại có ý nghĩa hơn vậy, ấn tượng ban đầu mang tính chủ quan khó xác định, bị nhiều hiệu ứng tác động không dễ xoá nhoà. Nó quyết định nhiều thái độ ứng xử tiếp đó của chúng ta đối với đối Quy gán xã hộiViệc chúng ta giải thích các sự kiện xã hội hay nhận định về người khác bằng cách gán những nguyên nhân ổn định nằm trong kinh nghiệm của bản thân, gọi là quy gán xã gán xã hội, đó là quá trình suy diễn nhằm hiểu ý nghĩa hành động của người khác bằng cách tìm những nguyên nhân hợp lý để giải thích cho các sự kiện, hành động luôn biến đổi trong xã gán xã hội tuân theo những nguyên tắc– Nguyên tắc tâm lý ngây thơ chúng ta luôn tìm cách khám phá nguyên nhân hành vi để hiểu và dự đoán sự kiện sắp tới, với mong muốn có thể giám sát được môi trường và mọi vật xung quanh. Heider nhà tâm lý học Mỹ gọi xu thế này là tâm lý ngây thơ vốn có ở mỗi người.– Nguyên tắc suy diễn tương ứng Khi quan sát hành vi của người khác, ta luôn tìm cách suy diễn ý nghĩa của hành vi đó tương ứng với những gì ta thấy. Nếu chúng ta có nhiều thông tin về mục đích hoạt động của đối tượng thì sự suy diễn tương ứng càng chính xác. Sự suy diễn tương ứng nhằm đi đến một quy gán nào đó bị ảnh hưởng bởi 3 yếu tố sau+ Chuỗi hành vi không thống nhất+ Hành vi xã hội được mong đợi hay hành vi không được mong đợi+ Những hành vi được tự do lựa chọn dễ suy diễn hơn hành vi bắt suy diễn tương ứng để tìm nguyên nhân hành vi không phải lúc nào cũng chính xác. Sự suy diễn tương ứng chỉ phản ánh được lượng thông tin chúng ta có về đối tượng. Khi cá nhân không có thông tin chi tiết, cụ thể nên hay dựa vào một điều bất kỳ mà người đó biết để quy gán hoặc cho là thế này, hoặc thế kia.– Nguyên tắc suy diễn nhân quả thường biểu hiện bởi 3 yếu tố Chủ quan, khách quan, đối một quy luật chung khi cá nhân thành công thì thường quy gán nghiêng về bản thân theo xu hướng quy gán vào nâng cao năng lực, phẩm chất của lại, khi thất bại cá nhân thường đổ lỗi cho khách quan. Còn đối với người khác khi thành công chúng ta hay quy gán cho là khách quan, khi họ thất bại lại quy gán do chủ quan của quá trình quy gán chúng ta hay cho thái độ và hành vi của mình là chuẩn, hành vi của người khác là không chuẩn. Từ đó, chúng ta nhìn nó để chiếu theo người khác, ép người khác theo chuẩn của trong những nhược điểm của con người khi quy gán nguyên nhân hành vi là ảo tưởng rằng mình có khả năng kiểm soát được mọi yếu tố quyết định thành công hay thất bại. Ví dụ như trò chơi xổ số, người ta có cảm tưởng rằng có nhiều cơ hội thắng cuộc nếu tự do lựa chọn vé số.
Nội dung Text Thuyết trình Tâm lý học xã hội Tri giác xã hội Tâm lý học xã hội Psychologie sociale Tri giác xã hội Giáo viên hướng dẫn TS. Trần Thu Hương Nhóm làm bài tập Nhóm 10 Các thành viên Mai Linh nhóm trưởng Nguyễn Công Huân Trịnh Văn Tịnh Nguyễn Duy Hiệp Nguyễn Trung Thành Tri giác là gì? Tri giác là một quá trình tâm lí phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của con người. Khác với cảm giác, tri giác là một mức độ mới của nhận thức cảm tính, nó không phải là tổng thể các thuộc tính riêng lẻ, mà là một sự phản ánh sự vật, hiện tượng nói chung trong tổng hoà các thuộc tính của nó. Những đặc điểm của tri giác Nhận thức cao hơn cảm giác Một quá trình tâm lý giống cảm giác. Phản ánh trực tiếp nhưng trọn vẹn sự vật dựa trên cơ sở hiểu biết kinh nghiệm. Phản ánh cấu trúc nhất định của sự vật qua cảm giác trừu tượng. Quá trình tích cực gắn với hoạt động của con người. Những quy luật chính của tri giác Tính đối tượng. Tính lựa chọn Tính ý nghĩa tri giác có ý thức bằng cách gọi tên sự vật. Tính ổn định. Tính tổng giác. Ảo giác Các loại tri giác Tri giác không gian Hình dạng, độ lớn, vị trí chiều sâu, độ xa, phương hướng…. Tri giác thời gian Độ dài, tốc độ, liên tục…. Tri giác vận động Biến đổi sự vật trong không gian. Tri giác con người Sự phản ánh tâm lý, từ cảm giác đến tư duy. Tri giác xã hội là gì? Là sự cảm nhận, hiểu biết về các đối tượng xã hội như bản thân, người khác, nhóm xã hội, cộng đồng. Sự nhận biết này phụ thuộc vào đối tượng tri giác, kinh nghiệm, mục đích nguyện vọng của chủ thể tri giác hay hoàn cảnh tri giác. Đối tượng tri giác là một thực thể xã hội tích cực mang sắc thái tình cảm và thái độ riêng của mình. Tóm lại Là thông qua các biểu hiện hành vi bên ngoài kết hợp với các đặc tính bên trong của sự vật để hiểu được mục đích hay phương hướng hành động của họ. Là quá trình nhận thức được đối tượng giao tiếp bằng con đường cảm tính chủ quan, theo kinh nghiệm. Những cơ chế chi phối Ấn tượng ban đầu. Quy luật quy gán xã hội. Định kiến xã hội. Ấn tượng ban đầu Sau lần tiếp xúc ban đầu ta sẽ có ấn tượng nhất định về đối tượng của mình Ấn tượng ban đầu hình thành ngay cả khi không chịu sự chi phối của lý trí. Là hình ảnh tổng thể trên cơ sở nhìn nhận một cách toàn diện diện mạo, lời nói, cử chỉ, tác phong, ánh mắt. nụ cười...... Thí nghiệm của Ash Solomon-1946 Thông minh Thông minh Khéo léo Khéo léo Cần cù Cần cù Nồng nhiệt Lạnh lùng Kiên quyết Kiên quyết Thực tế Thực tế Thận trọng Thận trọng - - Người tin tưởng vào những điều Một kẻ đua đòi thấy mình đúng đắn, muốn mọi người thành công, thông minh hiểu quan điểm của mình, chân khác người. Một kẻ tính thành khi tranh luận và mong ý toán, lãnh cảm. kiến đó được thừa nhận Cơ sở hình thành ấn tượng ban đầu 1. Theo các đặc điểm trung tâm. 2. Lý thuyết sơ đồ nhân cách ngầm ẩn. 3. Các hiệu ứng chi phối ấn tượng về người khác. Các đặc điểm trung tâm Những đặc tính nhân cách nào đó có ý nghĩa nhất quyết định ấn tượng của ta về người khác. Trong đời sống hàng ngày, khi nhận định lần đầu về người khác ta có thói quen chỉ căn cứ vào một vài nét tính cách nổi bật của người đó thôi. Lý thuyết sơ đồ nhân cách ngầm ẩn Khi nhìn nhận người khác mỗi người chúng ta đều mang trong đầu sơ đồ liên hệ tính cách người đó. Mối liên hệ này khi gặp người khác sẽ được hoạt hoá. Phụ thuộc vào kinh nghiệm sống của cá nhân. Các hiệu ứng chi phối ấn tượng về người khác Mô hình chỉnh lý thông tin Anderson Đtb = điểm đặc tính tốt – điểm đặc tính xấu / tính cách. Tâm thế của chủ thể là sự định hướng sẵn của chủ thể về đối tượng, sự vật, sự việc, sự kiện. Tâm thế sẵn có với ai đó thương chi phối ấn tượng của chúng ta về người đó. Hiệu ứng ban đầu Những thông tin đầu tiên đóng vai trò quan trọng hơn các thông tin tiếp theo. Hiệu ứng ban đầu Thông minh Ghen tỵ Chăm chỉ Ương ngạnh Bốc đồng Hay phê phán Hay phê phán Bốc đồng Ương ngạnh Chăm chỉ Ghen tỵ Thông minh - - Một người có năng lực và Thiên về ác cảm bi bị những biện hộ cho tính ương đặc tính tiêu cực trước ngạnh của mình vì người che lấp đi. đó biết mình làm gì và tin rằng điều đó đúng. Quy luật quy gán xã hội Là cách mà con người thường dùng để nhận định người khác. Quy gán thường mang tính chủ quan nên khó tránh khỏi sai sót. Để tránh những sai sót đó cần nắm vững nguyên tắc quy gán. Các nguyên tắc quy gán Tâm lý ngây thơ Chúng ta luôn có tâm lý muốn kiểm soát được những thay đổi, biến động của môi trường xung quanh. Suy diễn tương ứng Con người thường suy diễn tương ứng với những gì họ thấy. Suy diễn đồng biến Là suy diễn cho nguyên nhân kết quả đi kèm với nhau, nhân nào - quả ấy. Định kiến xã hội Thái độ thường mang hàm ý xấu về đối tượng, sự vật, hiện tượng. Hình thành trong quá trình xã hội hoá do sự giáo dục của từng gia đình hay do đặc thù của mỗi dân tộc. Thường ngăn cản chúng ta hiểu biết chính xác về đối tượng.
xã hội tri thức